Cảnh Báo: Bài đăng có nội dung gây khó chịu và khá rùng rợn, chống chỉ định đàn ông đang cho con bú
Chào mọi người.
Tôi nghĩ tôi nên nói ngay từ đầu rằng, tôi cũng mới học
cách chia sẻ trên diễn đàn này thôi, nên hãy kiên nhẫn với tôi, vì tôi
không biết hết các quy tắc hay phép tắc gì cả. Một người bạn của tôi đã giới
thiệu tôi đến diễn đàn này, sau
khi tôi kể cho anh ấy nghe câu chuyện và cho anh ấy xem những tài liệu mà tôi sắp
chia sẻ với các bạn. Anh ấy nghĩ rằng một số những người trên đây, sẽ đánh giá cao điều này, nhưng thành thật
mà nói, từ góc nhìn của tôi,
cái trang web này có vẻ giống như một nơi trú ẩn, dành cho những kẻ ngốc hơn là một
"diễn đàn hình ảnh huyền bí" nghiêm túc. Dù sao đi nữa, tôi đã có động lực để chia sẻ những
thứ này và cần làm điều đó một cách ẩn danh, vì những lý do riêng tư, mà bạn sẽ rõ ràng sau khi đọc xong
bài viết này. Về mặt luật
trên diễn đàn, thì
tôi đang thuộc dạng vi nó đây, nhưng nếu tôi hiểu
cách mà nơi này hoạt động, thì chủ đề trong bài viết này sẽ biến mất trong một ngày hoặc lâu hơn.
Bắt đầu câu
truyện luôn nhé, tôi là một biên tập viên, tại một studio độc lập nhỏ ở Mỹ. Tôi sẽ không
nói tên hay địa điểm, nên đừng hỏi, vì tôi muốn giữ công việc của mình. Mức
lương không cao lắm, nhưng công việc thì dễ dàng, và tôi thích những người tôi
làm việc cùng. Những thứ mà
studio chúng tôi sản xuất chủ yếu là sách, những cuốn sách mà bạn có thể
gọi là sách để ở
bàn cà phê. Loại sách mà mọi người lật qua khi chán, nhưng hầu như không ai đọc
từ đầu đến cuối. Những cuốn sách lịch sử hình ảnh nhạt nhẽo về một số thành phố
hoặc tiểu bang mà bán chạy ở các cửa hàng quà tặng khu vực. Thỉnh thoảng cũng có cuốn sách bản đồ hoặc
tiểu sử. Một vài nơi
thuê chúng tôi làm danh mục
cho triển lãm của họ. Kiểu như vậy. Công việc thì nhàm chán, nhưng ổn định
và chúng tôi có đủ việc làm và sách của chúng tôi kiếm đủ tiền để tồn tại, đây là điều mà nhiều studio nhỏ mong
ước, đặc biệt là trong khoảng thời gian khó khăn này.
Vì chúng tôi đã hoạt động một thời gian, tên tuổi của chúng
tôi cũng được biết đến một chút bởi những người yêu thích lịch sử và những người
nghĩ rằng họ là chuyên gia về một thị trấn nào đó ở Nowhere, Idaho hoặc một chủ
đề huyền bí mà không ai thực sự quan tâm. Chúng tôi thường nhận được rất nhiều bản thảo, một cách tự nguyện từ những người mà
tôi có thể nói rằng, tốt nhất là họ không nên viết sách, và những đĩa CD
được gửi cho chúng tôi một
cách đầy đủ, chứa hình ảnh từ những người không nên làm thợ chụp ảnh. Vì chúng tôi là một studio nhỏ, và không
có ai làm vị trí biên tập
viên thu mua riêng cả, cho nên công việc xem xét
"đống rác" này được chuyển quanh văn phòng, thay phiên nhau làm.
Trong trường
hợp hiếm khi, nếu
ai đó tìm thấy điều gì đó đáng để theo đuổi và giới thiệu cho chúng tôi, nhưng mà những Biên tập viên/Công
ty xuất bản cấp cao của chúng tôi mới có tiếng nói cuối cùng. Trong chín tháng qua, tôi đã làm việc
gần như không ngừng nghỉ trên một cuốn sách, mà mọi người trong văn phòng đều khá hào hứng. Biên tập viên của
chúng tôi đã tìm thấy nó trong lượt của anh ấy với đống tài liệu. Một ông già
mà tôi sẽ không nêu tên đã liên hệ với chúng tôi, một cách bất ngờ và đề nghị chúng tôi
cơ hội xuất bản bộ sưu tập ảnh lưu trữ hiếm của ông, với điều kiện chúng tôi đối
xử với chủ đề này bằng sự tôn trọng và nghiêm túc, mà ông cảm thấy nó xứng đáng.
Phải sử dụng thuật ngữ của ông ấy, và đó cũng là tiêu đề của cuốn sách, những bức
ảnh đều là những thứ “ Dị Thường." Nói cách khác, chúng thể hiện điều gì
đó không bình thường hoặc không thể giải thích được, điều mà thường đi kèm với
một câu chuyện thú vị tương ứng. Hầu hết chúng đều từ nửa đầu thế kỷ 20.
Như tôi đã
nói, đây không phải là loại nội dung mà chúng tôi thường xuất bản, nhưng vài mẫu
mà ông ấy gửi kèm theo thư giới thiệu thì khá thuyết phục, và khi chúng tôi đã
xem những bức còn lại, nghe một vài câu chuyện, và nhận ra rằng không bức ảnh
nào trong số đó được biết đến rộng rãi, chúng tôi biết mình đã có thứ gì đó thu
hút sự chú ý của mọi người. Ảnh bìa sẽ đơn giản và sang trọng, với nhiều khoảng
trắng và không gian. Mỗi bức ảnh sẽ xuất hiện dưới dạng in chất lượng cao ở
trang bên phải, theo sau là một trang bên trái trống, và sau đó là một vài đoạn
văn để chú thích cho mỗi bức ảnh ở trang bên phải tiếp theo.
Ngay từ đầu,
ông ấy là một người khá khó chịu để làm việc cùng và công việc kéo dài mãi vì
ông ấy từ chối gửi nhiều hơn một tài liệu cùng một lúc. Ông ấy sẽ gửi cho tôi
thư bảo đảm, tôi nhận được, quét nó, và gửi lại bằng thư bảo đảm, và chỉ sau đó
ông ấy mới gửi cái tiếp theo. Ông ấy có vẻ nghĩ rằng mình có một bộ sưu tập cực
kỳ quý giá và rất lo lắng về việc mất nó, nên chỉ dám mạo hiểm một món đồ một lần.
Cuối cùng, chúng tôi đã chi quá nhiều tiền cho phí gửi thư đến nỗi, sẽ rẻ hơn nếu
tôi bay đến nơi ông già sống với một máy quét và một chiếc laptop.
Chúng tôi
có lẽ đã hoàn thành được một phần ba quá trình sản xuất, thì ông ấy lại kéo thảm
dưới chân chúng tôi. Ai đó đã đề nghị ông ấy một số tiền lớn cho những bức ảnh,
nhiều hơn rất nhiều so với cái chúng tôi đề nghị cho quyền xuất bản, với điều
kiện là cuốn sách của chúng tôi phải bị hủy bỏ và những bức ảnh không được công
khai. Chúng tôi yêu cầu ông ấy đến gặp mặt và cố gắng thuyết phục ông ấy, đồng
thời chiều lòng cái tôi và cái mong muốn "được công nhận học thuật" của
ông ấy, và trong vài ngày có vẻ như điều đó đã hiệu quả. Nhưng khi ông ấy về
nhà, ông ấy lại thay đổi ý kiến và bắt đầu chửi bới tôi và Biên tập viên cấp
cao của tôi qua điện thoại, yêu cầu chúng tôi ngừng dự án.
Ông ấy đã
thuê một luật sư, người đã đưa ra một số lý do vô lý, để hủy hợp đồng của ông ấy,
và sau đó ông ấy đe dọa chúng tôi bằng một vụ kiện sẽ khiến chúng tôi phá sản nếu
chúng tôi tiếp tục dự án khi thua kiện. Để thêm sự xúc phạm, công ty luật đã gửi
một gã IT phiền phức đến văn phòng của chúng tôi để đảm bảo rằng các tài liệu bị
xóa khỏi máy tính của chúng tôi. Bởi vì phần lớn tài liệu tồn tại trên máy của
tôi, và tôi đã dành hàng tháng trời cuộc đời mình cho dự án này, tôi cảm thấy,
và vẫn cảm thấy, bị xâm phạm và cay đắng về toàn bộ chuyện này.
Ai đó phải
hưởng lợi từ công sức lao động đó. Đó là lý do tôi đến với diễn đàn này. Rất tiếc,
tôi không có những bản quét độ phân giải cao mà tôi đã làm từ những bức ảnh,
nhưng tôi đã giữ lại các bản thảo làm việc của những chú thích gốc và mười bốn
tấm "hình thu nhỏ" độ phân giải trung bình mà Quark tạo ra khi tôi bố
trí phiên bản gốc của cuốn sách. Đừng hỏi tại sao chúng tôi vẫn đang sử dụng
Quark. Đó là cái mà chúng tôi biết và cái mà chúng tôi đã trả tiền từ lâu rồi.
Tôi không nên làm thế, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn mang những tệp Quark làm việc
về nhà để chỉnh sửa trên máy tính cá nhân.
Tệp tin đầy
đủ, với các hình ảnh độ phân giải cao được nhúng, quá lớn và cồng kềnh để mang
về nhà với tôi — hầu hết thời gian tôi chỉ đang thử nghiệm với các phông chữ và
tùy chọn bố cục, vì vậy tôi không nhúng hình ảnh cho đến cuối. Dù sao, sau khi
mọi chuyện xảy ra, tôi phát hiện ra rằng tôi có một "tệp làm việc"
trên máy tính cá nhân về những gì chúng tôi đã làm đến thời điểm này, nên tôi
đã in ra file .pdf và sau đó tách văn bản và hình ảnh từ tệp .pdf đó. Các bạn sẽ
là những người hưởng lợi từ điều đó. Chỉ để làm rõ, tôi không khẳng định gì về
tính xác thực và nguồn gốc của những bức ảnh này. Tôi không ở đây để thuyết phục
các bạn rằng chúng là thật. Tôi chỉ đưa chúng ra vì tôi nghĩ chúng xứng đáng được
nhìn thấy, và không bị ẩn giấu trong bộ sưu tập riêng tư của một tên nhà giàu
nào đó.
Bức ảnh thứ
nhất :
Vụ Hỏa hoạn
Collinwood
Olson, ngồi ở phía bên phải hàng ghế sau. |
Đây là bức ảnh
cuối cùng được biết đến chụp bên trong Trường Lake View ở Collinwood, Ohio, trước
khi nó bị thiêu rụi vào ngày 4 tháng 3 năm 1908, khiến 172 học sinh, hai giáo
viên và một người cứu hộ thiệt mạng. Ngọn lửa bắt đầu khi một thanh xà nhà bị
cháy từ một ống hơi nước gần đó.
Lửa đã chặn
các lối thoát, dẫn đến hoảng loạn và một cuộc giẫm đạp khiến một số lượng lớn nạn
nhân bị mắc kẹt trong một cầu thang, nơi họ bị thiêu sống. Các thương vong thêm
xảy ra, khi những học sinh đang cháy nhảy từ cửa sổ tầng hai và tầng ba. Tất cả
mọi người trong bức ảnh này đều đã chết, ngoại trừ ông Olson, ngồi ở phía bên
phải hàng ghế sau. Những hiện tượng kỳ lạ trong bức ảnh vẫn chưa được giải
thích.
Tấm ảnh thứ
hai :
Cuộc Phỏng
Vấn Cuối Cùng Của Charlie Noonan
một người phụ nữ lạ sống một mình trên một mảnh đất hẻo lánh ở vùng panhandle. |
Charlie
Noonan là một nhà nghiên cứu dân gian nghiệp dư đã đi khắp miền Nam và Tây Nam
nước Mỹ vào những năm đầu thế kỷ 20, thu thập những câu chuyện ly kỳ và huyền
bí. Theo vợ của ông, Ellie, một ngày nọ, Charlie được một người nông dân ở
Oklahoma kể cho một câu chuyện về một người phụ nữ lạ sống một mình trên một mảnh
đất hẻo lánh ở vùng panhandle.
Người nông
dân khẳng định rằng người phụ nữ đó không phải là một người phụ nữ thực sự, mà
là một thứ gì đó khác, thứ mà giấu bản chất thật của nó dưới một chiếc khăn
trùm đầu và không bao giờ xuất hiện mà không có một con chó lớn bên cạnh.
Noonan dường như rất tò mò và đã cố gắng tìm kiếm người phụ nữ đó trong một
chuyến đi nghiên cứu của mình. Ông không bao giờ được nhìn thấy nữa.
Sau đó, vợ
của ông là Ellie Noonan nhận được liên lạc từ một người cầm đồ ở Tulsa, người
nhớ đã đọc về sự biến mất của chồng bà trên báo, sau khi tìm thấy tên ông được
khắc trên một chiếc máy ảnh mà ông ta mua từ một người lang thang. Người cầm đồ
đã trả lại chiếc máy ảnh, và bà Noonan đã cho xem những cuộn phim bên trong với
hy vọng tìm ra manh mối về nơi chồng bà đang ở. Đây là bức ảnh duy nhất trong
cuộn phim. Thật không may, cả vị trí của mảnh đất và tên của người nông dân đã
kể câu chuyện cho ông nghe, đều không được ghi lại trong ghi chú của Noonan.
Bức ảnh thứ
ba:
Cái Chết Của
John Ulsted
Cái Chết Của John Ulsted |
Bức ảnh bị
rách này mang tính tiên tri, mô tả một đội cầm cờ của Quân đội Liên bang, chỉ một
tháng trước khi họ tiến vào trận chiến ở Antietam (tháng 9, 1862).
Người đàn
ông ở bên phải, tên là John Ulsted, đã bị pháo bắn làm mất đi bên phải khuôn mặt
và cánh tay phải của mình ngay từ đầu cuộc chiến. Không ai biết chính xác khi
nào bức ảnh bị hư hại.
Bức ảnh thứ
tư:
Kẻ Chém Người
Ở New Orleans
Liệu đây có phải là hình ảnh tên sát nhân? |
Édouard
Martel là một nhiếp ảnh gia và nhà phát minh người Pháp, vời sự nghiệp không
thành công cho lắm, đã đi khắp nước Mỹ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cố
gắng thu hút sự quan tâm và nhà đầu tư, cho một thiết bị thêm tính năng hẹn giờ
và phơi sáng tự động cho dòng máy ảnh gập “Brownie” nổi tiếng của Kodak. Trong
những chuyến đi của mình, ông đã chụp hàng ngàn bức ảnh tự động để thử nghiệm
và hoàn thiện phát minh của mình.
Thường thì
ông sẽ dậy sớm, đặt một chiếc máy ảnh ẩn ở một vị trí không nổi bật trên đường
phố, của bất kỳ thành phố nào mà ông đang ở, rồi đi đến một quán cà phê hoặc
quán bar gần đó, để có thể ghi lại những cảnh đời thường một cách tự nhiên, nhằm
nhớ lại những chuyến đi của mình. Những bức ảnh tốt nhất trong số đó, đã được
chọn cho buổi triển lãm duy nhất của Martel, tại Paris, năm 1924. Thật không
may, Martel đã chết trong cảnh nghèo khổ và không ai biết đến vào năm 1955, và
con gái của ông, Jeanne, đã phải sắp xếp qua những hộp ảnh ông để lại, để xem
cái gì nên giữ lại và cái gì có thể vứt đi. Trong quá trình này, cô đã tìm thấy
bức ảnh này, chụp ở New Orleans vào sáng ngày 28 tháng 10 năm 1919, vài giờ trước
khi Martel lên một chiếc tàu thủy trở về Pháp.
Hóa ra
Martel ghét những vết mờ chuyển động trong các bức ảnh của mình, vì ông nghĩ rằng,
chúng sẽ phản ánh xấu về tốc độ và độ chính xác của cơ chế ống kính. Định kiến
này khiến ông bỏ qua và không nhận ra có lẽ đây là bức ảnh quan trọng nhất mà
ông từng chụp.
Điều gì làm
cho bức ảnh này trở nên đặc biệt? Đêm trước khi bức ảnh được chụp, kẻ giết người
hàng loạt khét tiếng và vẫn chưa được xác định, chỉ được biết đến với cái tên
“Kẻ Chém Người Ở New Orleans,” đã thực hiện vụ giết người cuối cùng của mình,
chém Mike Pepitone đến chết trong phòng ngủ của anh ta và rồi bỏ trốn ngay khi
vợ Pepitone phát hiện ra thi thể. Liệu đây có phải là hắn đang trở về nhà
không? Thật khó để nói, nhưng nếu đúng như vậy, hình ảnh dường như phản bác lại
huyền thoại (dựa trên lời khai không chắc chắn của Pauline và Mary Bruno, cùng
với định kiến phổ biến thời đó) rằng chỉ có một người đàn ông da đen mới có thể
thực hiện được những hành động tàn bạo như vậy.
Bức ảnh thứ
năm:
ba sinh vật “giống người” |
Bức ảnh này
được chụp vào năm 1895, bởi một nhiếp ảnh gia/người thám hiểm hang động nghiệp
dư tên là Oren Jeffries, trong khi khám phá một khu vực chưa được biết tới trên
bản đồ của Grand Caverns, ở miền Tây Nam Virginia. Khi bức ảnh được chụp,
Jeffries đang tiến hành các thí nghiệm nhiếp ảnh, sử dụng thời gian phơi sáng cực
dài, để xem liệu có thể ghi lại bất cứ điều gì trong điều kiện không có ánh
sáng, hay còn gọi là “bóng tối trong hang.” Anh ta sẽ đặt mình ở nơi bằng phẳng,
tắt đèn lồng, và sau đó mở ống kính của chiếc máy ảnh hộp tự chế của mình,
trong thời gian lâu nhất có thể chịu đựng được bóng tối.
Trong một
trong những thí nghiệm này, anh nghe thấy một cái gì đó tiến lại từ những chỗ
sâu hơn trong hang. Hoảng sợ, Jeffries đã bỏ dở thí nghiệm và kích hoạt một
trong những đèn flash Blitzlicht, mà anh dùng để chụp ảnh truyền thống dưới
lòng đất. Theo báo cáo mà anh sau đó gửi cho một tờ báo địa phương, Jeffries đã
thấy ba sinh vật “giống người”, đang nhìn chằm chằm vào anh từ trong bóng tối
và đã chạy trốn theo hướng ngược lại, không dừng lại cho đến khi lên mặt đất.
Vài ngày sau, anh trở lại cùng với ba người khác để lấy lại chiếc máy ảnh hộp của
mình. Đây là hình ảnh được ghi lại trên phim bên trong.
Bức ảnh thứ
sáu:
Cặp sinh
đôi Harlow
Góc phải trên cùng, hai bóng của cậu bé xuất hiện. |
Năm 1938,
Evergreen Park (bên ngoài Chicago). Billy và Stevie Harlow đang ngồi ở ghế trước
cùng mẹ Tammie, thì chiếc xe Ford của họ va chạm trực diện với một chiếc
Chrysler. Trong lúc va chạm, hai chiếc xe đã xoay theo quán tính, và chúng va
vào thêm hai chiếc xe khác bên đường nữa.
Tammie
Harlow sống sót nhưng hai cậu bé đã bị văng ra khỏi kính chắn gió và chết ngay
lập tức. Một nhiếp ảnh gia hiện trường vụ án từ tờ báo địa phương, đã chụp bức ảnh
này trong lúc một nhóm tình nguyện viên làm việc khẩn trương để cứu John
Downing, tài xế của chiếc Chrysler. Có vẻ như linh hồn của cặp sinh đôi Billy
và Stevie vẫn ở lại, để xem chuyện gì đang diễn ra.
Bức ảnh thứ
bảy:
Bi kịch nhà
Sorrenson
Anders (đang ngồi trên lừa), và định cư tại một trang trại ở Missouri. Ba đứa trẻ nữa — Simone, Frikke và Mathilde (từ trái sang phải, ở giữa và trong xe đẩy) |
Gia đình
Sorrenson là một gia đình người Đan Mạch đã nhập cư vào Hoa Kỳ, vào khoảng giữa
năm 1905 và 1906. Họ đến cùng với đứa con lớn nhất, Anders (đang ngồi trên lừa),
và định cư tại một trang trại ở Missouri. Ba đứa trẻ nữa — Simone, Frikke và
Mathilde (từ trái sang phải, ở giữa và trong xe đẩy) — cũng nhanh chóng ra đời.
Bức ảnh này, chụp vào năm 1916, ghi lại hình ảnh của cả bốn đứa trẻ, khi chỉ
vài tuần trước khi xảy ra bi kịch.
Ba đứa trẻ
lớn nhất hình như đang chơi trò pháo đài trong kho rơm của gia đình, và có lẽ
đã ngủ quên. Cha của chúng, Niclas, đã lái một chiếc máy thu hoạch rơm bằng gỗ
vào đống rơm và đã làm thiệt mạng cả ba đứa, ở vị trí chính xác, nơi mà bức ảnh
được chụp.
Mathilde, đứa
nhỏ nhất, đang ở trong nhà với mẹ vào thời điểm đó và không bị thương. Theo lời
của con trai một người hàng xóm, mà tác giả đã phỏng vấn sau này, con lừa cũng
đã chết theo cách khủng khiếp tương tự, khi bị mắc đầu vào hàng rào dây thép
gai và suýt bị chặt đầu trong cơn hoảng loạn để thoát ra. Chi tiết cuối cùng
này hiện này vẫn không thể được xác minh.
Bức ảnh thứ
tám:
Hồn ma của
Viola Peters
Thấy ai ở góc bên phải không nè? |
Một bóng hình núp sau cửa, quan sát cuộc hành quyết ghê rợn. |
Viola
Peters là một cô gái chưa chồng xuất thân từ gia đình khá giả, sống một mình ở
thị trấn nông thôn nhỏ McCaysville, Georgia. Cô rất được yêu quý trong cộng đồng
vì những đóng góp từ thiện cho nhà thờ Baptist, bếp ăn từ thiện, và trại trẻ mồ
côi địa phương, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, khi những tổ chức
đó gần như hoàn toàn phụ thuộc vào lòng tốt của cô.
Vào tháng 7
năm 1935, Viola đã bị một kẻ lang thang tên là Tom Cullin hãm hiếp, và sát hại
một cách tàn bạo. Cullin đã xin ở ké trong nhà của Viola và “làm nhục” thi thể
của cô trong suốt mười bảy ngày trước khi bị bắt. Một nhóm dân địa phương tức
giận đã xông vào nhà tù quận, bắt Cullin ra và treo cổ hắn trên cây cầu cũ bắc
qua sông Toccoa.
Bức ảnh này
được chụp bởi Garrett Killian, một nhân chứng của vụ treo cổ, đã gây ra một làn
sóng tranh cãi, khi được công bố vài ngày sau đó trong tờ Atlanta Constitution.
Đối với hầu hết mọi người, điều này gợi ý rằng linh hồn của Viola đã tìm được một
chút bình yên, khi chứng kiến sự trừng phạt của kẻ giết người, nhưng một số người
có tâm trí méo mó lại nhìn thấy trong vẻ mặt buồn bã của cô, một nỗi khao khát
được nhìn thấy một lần cuối người tình duy nhất của mình.
Bức ảnh thứ
chín:
Hồn ma của Sarah Eustace
Tấm này riêng mình thì thấy không sợ, chỉ thấy rất thương cô gái. |
Bệnh viện
Danvers (trước đây là Nhà thương điên Danvers) là một bệnh viện tâm thần theo
kiểu Kirkbride, được xây dựng vào năm 1874, trên một khu đất hẻo lánh ở nông
thôn Massachusetts.
Giống như tất
cả các nhà thương tại Kirkbridge khác, nó nổi tiếng với kiến trúc kiểu gothic
và việc sử dụng những kỹ thuật y tế đã lỗi thời để điều trị bệnh tâm thần.
Danvers thường được nhắc đến như là nơi khởi nguồn của phẫu thuật cắt bỏ thùy
trán.
Danvers còn
có nhiều điều nổi tiếng khác nữa. Nó là nguồn cảm hứng cho “Arkham Sanatorium”
hư cấu xuất hiện trong nhiều câu chuyện của H.P. Lovecraft và từ đó đã truyền cảm
hứng cho “Arkham Asylum” trong vũ trụ hư cấu của Batman. Đây cũng là nơi bộ
phim kinh dị Session 9 được quay.
Bộ phim đã
khai thác mạng lưới đường hầm rộng lớn dưới lòng Danvers một cách hiệu quả.
Không phải ngẫu nhiên mà các nhà làm phim chọn sử dụng những đường hầm này, vì
tin đồn về sự ám ảnh của chúng đã bám theo Danvers suốt hơn một trăm năm. Câu
chuyện nổi tiếng nhất liên quan đến Sarah Eustace, một bệnh nhân đã trốn khỏi
khu điều trị của mình vào năm 1955 và lén lút đi vào hệ thống đường hầm. Mặc dù
đã có nhiều cuộc tìm kiếm và một tuần phong tỏa nhà thương, Sarah không bao giờ
được nhìn thấy nữa. Người ta cho rằng cô đã chết ở đó, lạc lõng, khát nước và
cô đơn.
Một y tá tại
Danvers tên là Gail Malloy, đã trở nên ám ảnh với câu chuyện của Sarah và đã
dành nhiều giờ rảnh rỗi để tìm kiếm thi thể của cô trong các đường hầm. Mặc dù
cô không bao giờ tìm thấy xác, nhưng cô đã chụp được bức ảnh này vào cuối năm
1966, gợi ý rằng Sarah Eustace vẫn đi lang thang trong các đường hầm của
Danvers cho đến tận ngày nay.
Tấm ảnh thứ
mười:
Chân dung
Gia đình Stevenson
Góc dưới bên trái, ủa, tưởng hồn ma là phải mặc đồ trắng tóc xoã đồ, diện Vest các thứ nhìn chill chill dữ zay trời??? |
Ai nói ma quỷ
thì không có khiếu hài hước? Gia đình Stevenson là một gia đình giàu có ở
Boston, tự hào về ngành nghề và sự trường thọ mà hầu hết các thành viên trong
gia đình đều có. Bức chân dung này, chụp vào năm 1945, là nỗ lực để tụ tập những
người lớn tuổi nhất trong gia đình Stevenson cùng với một trong những đứa trẻ
nhỏ nhất. Emelia (ở giữa), 102 tuổi, được vinh danh là “Mẹ cả,” trong khi bé
Ophelia là đứa trẻ mới mười tám tháng.
Điều mà gia
đình Stevenson không nhận ra, cho đến khi bức ảnh này được phát triển là trong
ngày hôm đó, họ đã có thêm một thành viên đã khuất ở bên cạnh. James Pullman
Stevenson (1835-1932), ngồi bên trái giữa cô cháu gái Ginny và người anh họ
Alfred, đã được nhiều người có mặt nhận ra dễ dàng, và được nhớ đến với tình cảm
như một người chú nghịch ngợm, nổi tiếng với những trò đùa và những câu chuyện khắm
bựa.
Bức ảnh thứ
mười một:
Vụ Biến Mất của Bà Yurno
Khung cảnh đầy ma mị, với sự xuất hiện của bà Yurno góc dưới bên trái, xung quanh toàn khói và lá rụng. |
Trong những
năm cuối đời, Josephine Yurno thường đi dạo mỗi tối, khi trời nhá nhem ở khu phố
mà bà yêu thích ở Norwich, Connecticut.
Vào ngày 12
tháng 11 năm 1935, bà ra khỏi nhà như thường lệ, mà không bao giờ quay lại. Nhiều
cuộc tìm kiếm chuyên sâu đã được thực hiện, bởi một đội ngũ tình nguyện viên
đông đảo và lực lượng cảnh sát Norwich, nhưng không có dấu vết nào của bà được
tìm thấy.
Ba năm sau,
bà Yurno được phát hiện ngồi xổm trước cửa một nhà hàng xóm, không có vết
thương nào trên người và hoàn toàn khỏe mạnh. Khi được hỏi bà đã đi đâu, bà
Yurno đã không hiểu câu hỏi. Theo lời kể của bà, thì bà mới ra khỏi nhà và đi bộ
như bình thường mà thôi.
Mặc dù bị
hàng xóm và bác sĩ khuyên can, bà đã từ chối mọi điều trị y tế và tiếp tục cuộc
sống như thể không có chuyện gì xảy ra, bao gồm cả những cuộc dạo bộ vào ban
đêm. Một hàng xóm khác đã chụp được bức ảnh này của bà vào mùa thu năm 1938.
Đám khói từ những đống lá đang cháy, tạo cho bức ảnh một không khí u ám thích hợp.
Vào cùng ngày tháng 11 năm 1940, năm năm sau khi bà biến mất lần đầu, bà Yurno
lại biến mất lần nữa. Lần này thì không ai còn thấy bà nữa.
Bức ảnh thứ
mười hai:
Số Phận Của
Sally York
Rất khó nhận ra, nhưng hãy nhìn kỹ các ô cửa sổ nhé. |
Tai nạn khi
giã bông của cô bé tên Sally York, 9 tuổi, tại nhà máy dệt bông North Fork vào
năm 1912 là một trong số ít tai nạn kiểu như vậy, đã giúp các nhà lập pháp
thông qua Đạo luật Keating-Owning năm 1916, luật về lao động trẻ em đầu tiên
trong lịch sử nước Mỹ.
Từ thời điểm
xảy ra tai nạn cho đến khi nhà máy đóng cửa bốn thập kỷ sau, công nhân thường
xuyên phàn nàn về những chỗ lạnh lẽo, âm thanh lạ và những cái vỗ nhẹ trên vai
khi không có ai ở gần.
Các quản đốc
của nhà máy không quan tâm đến những phàn nàn này, cho đến khi bức ảnh này xuất
hiện vào năm 1932. Nó được chụp bởi một nhiếp ảnh gia du lịch tên là Benny
Johnson, người đã nhanh chóng bán nó cho tờ North Fork Gazette với mức giá mười
đô la chưa từng có. Nhà máy đã đóng cửa cho kỳ nghỉ Giáng sinh và lúc đó không
có ai bên trong. Bức ảnh sau đó bị đổ lỗi cho việc đóng cửa nhà máy, mặc dù
Nguy cơ Đại Suy Thoái có vẻ là nguyên nhân chính xác hơn.
Bức ảnh thứ
mười ba:
Đôi Mắt Của
Lily Palmer
Tấm ảnh đầu tiên của căn bệnh, |
Lily Palmer chưa đầy 4 tuổi, khi cô bé trải qua điều mà các bác sĩ sau này gọi là "cơn ảo giác cảm giác cấp tính." Bức ảnh này, được mẹ của Lily là Annette chụp, vào đêm Halloween năm 1952, được cho là ghi lại khoảnh khắc khởi đầu của căn bệnh cô bé. Lily và người bảo mẫu người Philippines của cô đang chuẩn bị đi xin kẹo, thì bỗng nhiên cô bé hét lên và bắt đầu cào vào mắt mình.
Phải một thời
gian sau cô bé mới bình tĩnh đủ để nói, nhưng khi được hỏi cô thấy gì, Lily
liên tục nhắc đến "những thứ đang bò trong mắt mình." Vài ngày sau,
khi không có ai trông chừng trong phòng ngủ, Lily đã dùng một cây kim đan của mẹ
để đâm vào cả hai mắt mình.
Sau khi được
điều trị y tế, cô bé được chuẩn đoán và đưa vào viện. Lily sống trong cơ sở điều
trị tâm thần cho đến hết đời, đầu tiên là tại Bellevue (ở East Side của
Manhattan), sau đó là tại Trung tâm Tâm thần Rockland ở Orangeburg, nơi cô ở
cho đến khi qua đời, vì cơn đau tim vào tháng 3 năm 2001. Một cuộc gọi đến một
trong những người chăm sóc trước đây của cô tại Rockland xác nhận rằng, những
cơn hoảng loạn của Lily thường gây chấn thương nhất vào đêm Halloween, trong phần
lớn cuộc đời, các bác sĩ luôn có thể nghe thấy cô cầu xin và van nài nhân viên
giúp cô "lấy những thứ này ra khỏi mắt."
Bức ảnh thứ
mười bốn :
Sự Dối Trá
của Ba Ngôi
Hình ảnh đầu tiên của vụ thử nghiệm Bom hạt nhân. |
Đây là một
trong số nhiều bức ảnh nổi tiếng của vụ nổ hạt nhân đầu tiên. Vụ nổ được thực
hiện bởi Quân đội Mỹ vào ngày 16 tháng 7 năm 1945, tại Trường thử nghiệm White
Sands (nằm trong sa mạc Jornada del Muerto, cách Socorro, New Mexico khoảng 35
dặm về phía đông nam). Việc kích nổ "thiết bị plutonium theo kiểu sụp đổ"
này (cùng phương pháp được sử dụng trong thiết bị "Fat Man" được thả
xuống Nagasaki) đã mở ra Kỷ nguyên Hạt nhân và cuộc chạy đua vũ trang cuối cùng
giữa Hoa Kỳ và Nga.
Chỉ một số
ít người biết rằng bức ảnh này đã bị cắt ghép trước khi được công bố và tất cả
họ đều đã qua đời. Một trong số đó là nhiếp ảnh gia gốc, người đã tặng tác giả
một bản sao gốc với điều kiện không được để công chúng thấy, cho đến khi nào
công dân thế giới có thể chịu đựng được những hệ quả của những gì mà nó mô tả.
Tác giả vẫn chưa chắc chắn liệu tiêu chí này đã được đáp ứng hay chưa, nhưng vì
anh là người có khả năng sở hữu bản sao cuối cùng còn tồn tại, nên anh đã quyết
định rằng trách nhiệm của mình là phải trung thực với mọi người.
Đăng nhận xét