(r/Nosleep) Đây Là Thứ Kinh Dị Mà Tôi Đã Thấy Tại Chiến Tranh Việt Nam


Tôi đã giữ kín miệng của mình, im lặng gần 50 năm rồi, không hiểu sao giờ này tôi lại bắt đầu kể hết ra nữa.
 

Mọi người à, có lẽ chính căn bệnh ung thư giai đoạn cuối của tôi, đã khiến tôi có đủ can đảm để nói hết ra. Những điều mà bạn nghĩ, rằng sẽ mang theo xuống mồ cùng mình, bỗng trở thành những thứ bạn muốn nói với ai đó... bất kỳ ai. Tôi sẽ không làm bạn chán với một bài ca than vãn dài dòng về khoảng thời gian tôi ở Việt Nam, nó thật tệ, tệ cho tất cả mọi người, nhưng tệ nhất là đối với tôi, vì tôi chỉ cao 1m60. 


Nếu bạn không biết cảm giác ngắn ngủi trong chiến tranh Việt Nam là như thế nào, để tôi kể cho bạn nghe, bạn đến nơi và một sĩ quan cao cấp chỉ tay vào bạn và nói “Mày sẽ là một sự bổ sung tốt cho đội đặc nhiệm phụ trách đào hầm, muốn tham gia không?”. Về lý thuyết thì đây là một dạng câu hỏi, vì phục vụ trong những tiểu đội đó là tự nguyện, nhưng thật sự mà nói, thì nó chẳng khác gì một mệnh lệnh cả. Và đó chính là gánh nặng của tôi trong thời kỳ chiến tranh, trở thành “Chuột hầm”, lặn xuống những cái hầm sâu, tối tăm và nguy hiểm, nơi mà đầy người và động vật muốn giết tôi.


Thường thì chúng tôi hoạt động ở khu phức hợp hầm “Củ Chi” gần Sài Gòn, nhưng không phải hôm đó, hôm đó chúng tôi được lệnh điều tra một khu hầm ở miền Bắc, phía tây Đà Nẵng. Hai chúng tôi được cử vào hầm hôm đó, tôi và Benoit. Thường thì những người da đen cao to đều có thể tránh việc phải trở thành “chuột hầm”, vì đơn giản là họ quá cao, nhưng Benoit thì khá xui xẻo khi vừa thấp lại vừa da đen trong chiến tranh Việt Nam, một lời nguyền mà tôi không muốn dành cho kẻ thù tồi tệ nhất. Tôi là người đầu tiên vào hầm và Benoit theo sau, chúng tôi đều có súng Model 39, một ít C4, một cái đầu và đó là tất cả.


Chiến tranh Việt Nam.

Nếu bạn thắc mắc tại sao chúng tôi lại mang theo súng nhỏ loaị Model 39, hãy thử bắn một khẩu Colt .45 trong một cái hầm hẹp rồi quay lại đây nói chuyện với tôi nhé, người cuối cùng làm điều đó đã phải về nhà với cả đống máu chảy ra từ tai. Chúng tôi bò được trong khoảng thời gian dài tưởng như không có hồi kết, cái hầm quá chật hẹp, nghĩa là có lẽ nó vừa mới được đào xong, và mùi hôi thối nồng nặc, điều này thường có nghĩa là hoặc là thức ăn hỏng hoặc là một tên Việt Cộng xấu số nào đó đã chết ở đó và bị bỏ lại mặc cho thối rữa. Sau khoảng 40 phút bò lếch thếch trong im lặng hoàn toàn, tôi thấy hầm mở ra thành một căn phòng, tôi dùng chân chạm vào đầu Benoit, nghe thấy anh ta chuẩn bị súng. Tôi leo xuống căn phòng mở đó, chĩa súng vào những cái bóng, căn phòng được chiếu sáng mờ bởi một cái đèn dầu nhỏ, cũng không có ai ở đó.


Chúng tôi dành một chút thời gian để thích nghi, đây là đoạn hầm dài nhất mà cả hai chúng tôi đã từng bò qua, và nó cũng không có bẫy, thật không bình thường. Ai đó đã đào cái hầm chết tiệt này, nơi mà chỉ có cái đèn treo trên trần và một cái bạt vải trên tường đối diện, căn phòng trống trơn. Tôi tiến lại gần cái bạt và dùng súng đẩy nó sang một bên, đằng sau cái bạt là một cái cầu thang đá dẫn xuống. “Một cái cầu thang đá, ở dưới độ sâu đến mức này á?” Tôi thì thầm với Benoit, “Có lẽ Việt Cộng không xây cái này đâu, cái này nhìn cũ lắm, rất cũ, tớ nghĩ còn cũ hơn cả năm thành lập của nước Mỹ nữa đấy” Benoit thì thầm lại với giọng lo lắng. “Chúng ta đã đến đây rồi, phải tiếp tục thôi”, tôi đáp. Chúng tôi cùng nhau bước chậm xuống cầu thang hẹp, đèn pin của chúng tôi có ống kính màu đỏ và tôi thề cái cầu thang sáng đèn lên trông như một con đường đỏ chót, chúng tôi đang đi xuống địa ngục vậy. Cầu thang gần như sâu bằng chiều dài của cái hầm, cuối cùng tôi thấy cái cầu thang bị chặn bởi một cái bạt khác, ánh sáng từ bên kia ló ra.


Hang động chúng tôi vào rất giống Địa Đạo Củ Chi...

Tôi dùng súng đẩy cái bạt sang một bên, ngón tay tôi run trên cò súng. Mắt tôi sáng lên, tim tôi đập thình thịch, tôi suýt kéo cò... nhưng mà không... một cái gì đó khiến tôi dừng lại. Căn phòng có ít nhất 10 người bên trong, không ai trong số họ cầm vũ khí. Tôi chĩa súng vào nhóm người và chiếu đèn pin vào họ, họ không phản ứng, chỉ đứng đó lắc lư nhẹ nhàng tới lui. “Benoit, đừng bắn, có người ở đây, nhưng mà... có cái gì đó không ổn với họ.” Tôi bước vào căn phòng nhỏ chỉ được thắp sáng bởi vài cây nến, Benoit theo sau, cả hai chúng tôi cùng chiếu đèn pin vào những người đó, họ không để ý, vẫn tiếp tục lắc lư nhẹ nhàng tới lui. Tôi chiếu đèn pin vào một trong số họ, tôi thử búng tay, cô ta không phản ứng. Quần áo của cô ta cho tôi biết cô ta là Việt Cộng, tất cả họ đều là Việt Cộng, tổng gồm ba phụ nữ và bảy đàn ông, tất cả đều lắc lư nhẹ nhàng tới lui, chẳng bận tâm gì trên đời nữa.


Mắt của họ có màu đồng nhất, tôi không thể nói chính xác màu gì, vì tôi chỉ có thể chiếu sáng họ bằng đèn pin đỏ. Benoit ra hiệu bằng đèn pin về phía góc phòng, súng của họ chất đống... bị gỉ sét nặng. “Chúa ơi, Benoit, mấy thằng khốn này đã ở đây bao lâu rồi?”, “Tớ nghĩ ngay cả Chúa cũng không thường xuyên lui tới chỗ này đâu” Benoit đáp lại với giọng nặng nề. Tôi chiếu đèn về phía trước phòng, những người Việt Cộng kia đều quay mặt về một cái bàn thờ nhỏ, tôi tiến lại gần. Trên bệ đá đơn giản có một bức tượng vàng, được chiếu sáng bởi vài cây nến. Bức tượng được chế tác tinh xảo, là hình một người phụ nữ đẹp khỏa thân, phần trên thì như vậy, phần dưới thì giống như một con bạch tuộc, hàng chục xúc tu vàng nhỏ được chế tác tỉ mỉ, gắn vào thân người phụ nữ thay vì chân. Bức tượng có một số chữ viết ở chân, một chữ viết mà tôi không nhận ra, tôi với tay định nhấc bức tượng lên để xem cho rõ hơn nhưng Benoit hét lên


“Dừng lại, đừng chạm vào nó”. Tôi rụt tay lại cách bức tượng khoảng một inch, “Chúng ta cần rời khỏi đây... nhanh lên” Benoit nói khi đặt tay lên vai tôi. “Chúng ta chỉ cứ để họ như vậy sao?” Tôi hỏi khi chiếu đèn vào mắt họ, “Chúng ta sẽ đặt mìn C4 và hẹn giờ sau 90 phút” anh ấy nói, đã bắt đầu lấy C4 từ túi đeo bên hông. “ Nhưng họ không có vũ khí…” Tôi nài nỉ quay sang Benoit, “Những người này đã chết, có thể tệ hơn cả chết, tớ đã thấy cái gì đó giống như thế này một lần trước đây, ở trong một khu rừng rậm”. Tôi không tranh cãi thêm nữa, chúng tôi vội vàng đặt mìn C4, cài đặt hẹn giờ 90 phút và chạy lên cầu thang đá nhanh nhất có thể, cảm giác như đã qua một đời người vậy, chúng tôi mới tới được căn phòng nhỏ có đèn. Tôi leo vào đường hầm và Benoit theo sau, đột nhiên chúng tôi nghe thấy giọng một người phụ nữ yếu ớt gọi từ xa. “Đừng có quan tâm tới nó, tiếp tục chạy đi!!!!”


Ảnh minh hoạ.

Benoit hét lên từ phía sau, tôi không cần phải được bảo thêm nữa, tôi không quay lại. Đó là lần bò dài nhất trong đời tôi, tôi thấy ánh sáng ban ngày và tiếp tục bò mặc dù tay tôi đã trầy xước và đẫm máu. Tôi chui ra ngoài ánh sáng và hít một hơi không khí trong lành, Benoit theo sau. Chúng tôi cảnh báo những người khác về mìn C4 nhưng không nói gì thêm. Benoit và tôi ngồi im lặng hoàn toàn xa khỏi cửa hầm... chờ đợi... cầu nguyện.


Đất rung chuyển, một tiếng động ầm ầm vang lên và một cơn mưa đất phun ra từ đường hầm. Cả hai chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Chỉ sau một trải nghiệm như vậy, bạn mới tự hỏi những câu hỏi nhỏ. Đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi, “Cái quái gì đã giữ cho những cây nến sáng, trong cái phòng chết tiệt đó?”.


Phần 2 : 


Tôi đã nói với bạn rồi, tôi sẽ không làm bạn chán với hầu hết các chi tiết về thời gian của tôi ở Việt Nam. Tôi cũng sẽ không bao giờ gọi mình là “Nam” cả, vì tôi nhận ra sau khi trở về nhà, những thằng khốn ở hậu phương, những người chỉ ngồi viết giấy tờ trong suốt cuộc chiến, là những người thích giả giọng trầm và nói “Nam à” theo một cách sâu lắng và bi thương. Câu chuyện ngắn gọn là, sau vụ việc trong những đường hầm phía tây Đà Nẵng, Benoit và tôi đã bị ảnh hưởng một chút, nên chúng tôi không còn hữu ích cho công việc trong hầm nữa. Cả hai chúng tôi được chuyển vào hai trung đội bộ binh cơ giới khác nhau.


Khoảng một tháng sau đó, tôi đang trong một nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt, thì một lính mới đã bước qua một dây kẽm của Việt Cộng, dây kẽm đó được nối với một trong những quả mìn claymore mà chúng tôi đã bắt được. Quả mìn đã thổi bay chân của thằng lính mới và găm một đống mảnh kim loại và xương vào bên hông của tôi. Tôi đã sống sót, và để bù đắp cho những gì tôi đã trải qua, tôi nhận được một vé về nhà, à tôi nói về nhà, nhưng thực ra tôi nhận được vé đến một bệnh viện quân đội gọi là “Camp Zama” ở Nhật Bản. Họ đã cố gắng lấy ra hầu hết các mảnh đạn khỏi thân tôi qua hai ca phẫu thuật.


Bệnh viện đông đúc một cách kinh hoàng, vào ban đêm, tiếng la hét của những bệnh nhân khác thật khủng khiếp và mùi hôi khiến tôi nhớ đến cái hầm chết tiệt đó. Tôi thực sự cảm thấy vui khi vì quá đông đúc mà tôi được chuyển đến một tòa nhà cũ hơn trong khu phức hợp. Đó là một loại phòng bệnh dành cho người tâm thần bỏ hoang, một đống đổ nát, chỉ có khoảng 15 bệnh nhân, chủ yếu là những thằng đàn ông bị thương nhẹ. Nhưng tôi không quan tâm, nó đủ xa khỏi các tòa nhà chính để tôi không phải nghe những thằng khốn khổ khác kêu la gọi mẹ mỗi đêm. Tôi đang hồi phục, điều này vừa là phước lành vừa là lời nguyền.


Thời gian phục vụ của tôi chưa hết và nếu tôi được tuyên bố đủ sức khỏe để phục vụ, tôi có thể bị gửi trở lại Việt Nam, và tôi không muốn quay lại, không sau những gì tôi đã thấy trong cái hầm đó. Hai bác sĩ quân y Mỹ và một nữ y tá Nhật Bản đã đến để đánh giá tình hình của tôi vào một buổi tối muộn, “Vết thương của anh có vẻ đang hồi phục khá tốt”, một bác sĩ mặt nghiêm nói, “Về mặt thể chất thì ít nhất là vậy” bác sĩ thứ hai đeo kính mỏng nói, bác sĩ đầu tiên nhìn anh ta với ánh mắt như thể có thể cắt được kính vậy. Bác sĩ đeo kính rõ ràng là bác sĩ tâm lý, ông ta sẽ là vé về nhà của tôi, nếu tôi có thể thuyết phục ông ta rằng tôi đã mất trí, nhưng tôi không thể diễn quá lố. Nữ y tá chỉ đứng sau họ, chăm chú ghi chép. “Tình trạng tâm lý của anh gần đây như thế nào?, anh có những rắc rối nào khi suy nghĩ không?, tôi hiểu anh là lính đặc nhiệm trong hầm mỏ”, bác sĩ tâm lý hỏi.


“Vâng, tôi... thỉnh thoảng tôi có những cơn ác mộng về những gì tôi đã thấy trong hầm, tôi... đôi khi nghĩ đến việc... tự làm hại bản thân”, tôi cố làm giọng run rẩy để tăng thêm hiệu ứng, nhưng cả hai đều không tin. Tình huống này thật tồi tệ, sau những gì tôi thấy mà tôi phải giả vờ là không ổn định tâm lý chỉ để có một vé về nhà, tôi cảm thấy tuyệt vọng và muốn bỏ cuộc. Dù rất muốn về nhà, tôi không thể nói cho họ biết những gì đã xảy ra trong những đường hầm, tôi muốn về nhà nhưng không phải để bị nhốt trong một bệnh viện tâm thần. “Anh đã thấy những gì trong các đường hầm đó?” bác sĩ tâm lý hỏi một cách bình tĩnh. “Bác sĩ, gần Đà Nẵng, tôi đã xuống một cái hầm sâu nhất, tối tăm nhất mà anh có thể tưởng tượng, và nếu tôi nói cho anh biết tôi đã thấy gì trong cái hầm đó, anh cũng sẽ không tin tôi đâu, vậy nên hãy viết bất cứ điều gì anh cần vào bảng ghi chú của anh đi và để tôi yên”.


Bác sĩ mặt nghiêm không ấn tượng với giọng điệu của tôi, nhưng khi tôi đang nói, nữ y tá Nhật Bản đã ngừng ghi chép, mặt cô ta trở nên tái nhợt và cô ta nhìn tôi với vẻ hoảng sợ. “Chà, chúng tôi sẽ kiểm tra anh lại vào ngày mai, cố gắng nghỉ ngơi một chút đi” bác sĩ tâm lý nói với vẻ tò mò, và rồi họ đều rời đi, nữ y tá nhìn lại tôi khi họ đi, mặt cô ta vẫn tái nhợt vì sợ hãi. Tôi đã đi ngủ vào đêm đó, biết rằng sớm thôi họ sẽ gửi tôi trở lại Việt Nam. Tôi tỉnh dậy muộn đêm đó trước tiếng thì thầm của một người phụ nữ, tôi không thể nghe rõ âm thanh đó từ đâu phát ra. Tôi đứng dậy và đi ra ngoài một cách không chắc chắn, kéo theo cả cái máy truyền dịch.


Giọng nói của người phụ nữ phát ra từ hành lang bên cạnh, tôi nghĩ đó có thể là của cô y tá, nhưng giọng nói thì nghe có vẻ hơi quen thuộc quá. Tôi không thể đi lang thang trong hành lang mà không có vũ khí, tôi tìm kiếm trạm y tá, nơi mà không có một bóng người. Tôi tìm được một con dao phẫu thuật trong một ngăn kéo, tạm chấp nhận vậy. Tôi lê bước qua cánh cửa gỗ lớn dẫn ra hành lang khác, bóng đèn nhấp nháy trong hành lang mờ mịt, sơn đang bong tróc trên tường. Ở cuối hành lang, tôi thấy hình dáng một người phụ nữ đứng gần cửa sổ nhìn ra đêm tối. Tôi từ từ tiến về phía cô ấy, con dao phẫu thuật dẫn đường, tay trái kéo cái máy truyền dịch. Khi tôi bước gần, những tiếng thì thầm yếu ớt trở nên to rõ hơn và tôi cuối cùng cũng nghe được câu nói, “KẺ PHẠM THƯỢNG, ĐẾN NHÀ ĐỎ” nó thì thầm. Máy truyền dịch của tôi bị mắc vào một viên gạch nứt trên sàn, phát ra tiếng kêu to, người phụ nữ quay lại và di chuyển nhanh về phía tôi, tim tôi đập loạn lên vì sợ hãi, tôi đã chuẩn bị sẵn con dao.


“Anh không nên ra khỏi giường”, đó là cô y tá, tay cầm điếu thuốc lá đang cháy, có lẽ cô ta đã hút thuốc bên cửa sổ, tiếng Anh của cô ta gần như hoàn hảo, chắc hẳn là con gái của một lính Mỹ, nhiều người trong số họ đã kết hôn với phụ nữ Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. “Sao cô lại thì thầm với tôi?”, tôi hỏi, vẫn chĩa con dao đề phòng. “Tôi không thì thầm gì với anh cả?”, cô ta nói trong sự bối rối và sợ hãi. “Chính cô đã thì thầm với tôi thì có, cô gọi tôi là... 'kẻ phạm thượng', điều đó có nghĩa là gì?” Tôi hỏi với giọng gắt gỏng, tay vẫn nắm chặt con dao. Một lần nữa, mặt cô ta trở nên tái nhợt vì sợ hãi, điếu thuốc rơi khỏi tay cô ta “Anh sẽ không an toàn ở đây đâu, ở Nhật Bản, hay quay lại Việt Nam, họ sẽ tìm được an hđấy” giọng cô ta run rẩy khi nói. “Ai... ai sẽ tìm tôi?” tôi hỏi cô ấy.


“Tôi không biết họ tự gọi mình là gì, mỗi nơi có một cái tên khác nhau. ‘Căn Bệnh Im Lặng’ là cách chúng tôi gọi họ ở đây, ở Nhật Bản. Tất cả những gì tôi biết chắc chắn là họ sẽ tìm thấy anh, có thể anh sẽ an toàn nếu về được Mỹ”, lời nói của cô ta chẳng mang lại chút an ủi nào. “Vậy thì cô phải giúp tôi... cô phải thuyết phục với các bác sĩ rằng tôi bị điên”, tôi nói với cô, gần như cầu xin. “Tôi sẽ cố gắng... đưa cho tôi con dao đi” cô ta bình tĩnh nói. Tôi đưa cho cô ta con dao và ngay khi vừa đưa, cô ta đã rạch dao lên cổ tay tôi. Tôi gào lên vì đau, cô ta thả con dao và nắm tay tôi, tạo áp lực lên vết thương. “Đây là cách duy nhất” cô ta nói, tôi lập tức hiểu ra kế hoạch của cô.


Hai y tá lao vào hành lang cũ từ một hành lang bên cạnh, bị đánh động bởi tiếng gào của tôi. “Lấy cho tôi vài cái băng gạc, anh ấy đang cố tự sát” cô ta gào lên với những người đó, một trong các y tá chạy đi lấy băng gạc, người kia chạy đến để đỡ tôi. Tôi xụp xuống trong vòng tay của y tá, suy sụp vì diễn xuất chứ không phải vì mất máu, vết thương không sâu lắm, tôi đã chịu đựng những gì tồi tệ hơn trước đó nữa cơ, cô ta đã làm rất tốt. Tôi được đưa về giường và khâu lại vết thương, đêm sau đó tôi được bác sĩ tâm lý thăm, ông ta đến một mình. Ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng, ghi chú điều gì đó vào hồ sơ và hỏi, “Anh có nghe thấy tiếng nói hay... những tiếng thì thầm không?”. “Không” tôi nhanh chóng đáp.


“Thú vị thật, chúng tôi đã có một người lính trẻ từ Louisiana ở đây khoảng ba tuần trước khi anh tới, anh ta cũng là lính đặc nhiệm. Anh ta khẳng định đã nghe thấy... ‘tiếng thì thầm’, nhưng chưa bao giờ nói cho tôi biết chúng nói gì, chúng tôi đã phải gửi anh ta về nhà”. Bác sĩ tâm lý giữ nguyên vẻ lạnh lùng lại, nhưng ánh mắt của ông ta dường như bùng cháy với cơn thịnh nộ. “Nếu anh thực sự nghe thấy... những tiếng thì thầm, và chúng cho anh biết điều gì đó, có thể là một bí mật về quốc gia, anh sẽ nói cho tôi biết chứ?”. “Tôi không nghe thấy tiếng nói hay tiếng thì thầm nào cả”, tôi đáp với tất cả sự quyết tâm mà tôi có thể có. Cơn giận dần dần biến mất khỏi mắt của anh ta.


“Thôi được rồi, anh sẽ được chuyển đến một bệnh viện ở Mỹ, anh sẽ được chỉ định một bác sĩ tâm lý ở đó”, anh ấy nói trước khi dừng lại, “Tôi hy vọng khi anh về nhà, anh sẽ tìm thấy điều gì đó mà anh đang tìm kiếm trong cuộc sống”, và với câu đó, ông cười và đi khỏi phòng bệnh. Ông ta biết tôi đang nói dối. Tối hôm đó, tôi được đưa đến sân bay và một lính gác đã đẩy tôi vào một chiếc C-130 bằng chiếc xe lăn. Chuyến bay đầy những người đàn ông bị thương tổn cả về thể xác lẫn tinh thần, và chắc chắn có vài người giống như tôi, chỉ đơn giản là tuyệt vọng không muốn trở lại Việt Nam, nhưng khác với họ, tôi thực sự nghe thấy tiếng nói, và tôi không bị điên. Chuyến bay cất cánh, tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi tháo dây chuyền quân hàm ra, cầu nguyện rằng tôi sẽ không bao giờ cần đến chúng nữa. Tôi mở khóa kéo của túi để bỏ dây chuyền vào trong, và ở trong cái máy bay đó, nhìn lại tôi là một bức tượng nhỏ làm bằng đất sét thô sơ, của bức tượng vàng mà tôi đã thấy trong các đường hầm.


Phần 3 :


Vậy đã có chuyện gì xảy ra khi tôi trở về nhà, tôi nghĩ bạn đang thắc mắc như vậy. Chà, vào thời gian đầu thì cũng không có gì, tôi bị giữ lại trong bệnh viện khoảng ba tuần, bác sĩ tâm thần mới dường như rất bận rộn và thấy tôi không thật sự nguy hiểm cho bản thân hay người khác nên tôi được xuất viện. Tôi cố gắng tìm Benoit ngay khi có thể, nhưng anh ta đã "biến mất" như người ta hay nói dạo này, nhưng thực ra, biến mất hồi đó đơn giản chỉ là không có số trong danh bạ điện thoại thôi. Dù sống trong vòng tay của anh ta suốt tám tháng, tôi vẫn biết rất ít về anh, chỉ biết anh đến từ một nơi cách New Orleans vài tiếng và có một người chị tên Marie, không phải là những thông tin chắc chắn cho lắm, để có thể lần theo dấu vết. Thật ra thì tôi đã sớm bỏ cuộc từ lâu rồi, tôi quyết định cố gắng quên đi mọi thứ, Việt Nam, cái hầm, giọng nói của người phụ nữ, nhưng cái tượng chết tiệt đó luôn có mặt như một lời nhắc nhở liên tục, tôi đã bịt kín nó lại trong một tấm vải vì sợ chạm phải vào cái thứ đó.


Cuối cùng tôi đã làm những gì mà mọi người khác ở New York thường làm, với thứ họ muốn vứt bỏ, tôi ném nó xuống sông luôn, nó sẽ tìm bạn bè cùng chung số phận của nó ở dưới đó, cùng với tất cả những vũ khí của tổ chức tội phạm bị tiêu huỷ, và hình ảnh của các cô bạn gái cũ nữa. Tôi có một ít tiền từ trợ cấp khuyết tật của cựu chiến binh, tôi đã kiếm thêm thu nhập bằng cách làm thêm những công việc tạp vụ, trong khi mà tôi có thể tìm được việc chính thức. New York năm 1969 không phải là một nơi vui vẻ gì, thành phố này đầy mùi rác thải chưa được thu gom và dường như đang có các vụ đình công hoặc bạo loạn mỗi ngày, giáo viên, nhân viên vệ sinh, trời ơi, tình hình tệ đến nỗi cả người đồng tính cũng bắt đầu bạo loạn, và họ dường như là một nhóm theo xu hướng hòa bình theo cách tôi thấy.


Tôi sống gần khu Greenwich Village, nên tôi ở ngay giữa mớ hỗn độn đó. Tội phạm cũng là một vấn đề lớn và tôi hiếm khi rời khỏi căn hộ mà không mang theo khẩu súng, và cứ như vậy khoảng sáu tháng, tôi làm một chút và cố gắng để tránh bị bắn hoặc bị đâm. Rồi một đêm nọ, bỗng dưng điện thoại reo lên. Tôi thường chỉ nhận được cuộc gọi từ các công ty "Đa Cấp", đây là một điều khá mới hồi đó và mọi đám tồi tệ có số điện thoại của bạn đều sẽ cố gắng bán đồ gì đó của họ. Tôi nhấc máy, “Tôi không muốn mua lò sưởi, bảo hiểm nhân thọ hay bảo vệ thế chấp, vì vậy đừng nên làm tốn thời gian của tôi”, tôi nói một cách bình tĩnh, có một khoảng lặng nhỏ xuất hiện ở đầu dây bên kia.


“Là Philippe... Philippe Benoit, tôi thấy anh vẫn không mất đi tài ăn nói của mình đâu nhỉ” đó là câu trả lời. “Benoit, Chúa ơi, tôi đã cố gắng lần theo dấu của anh khi tôi trở về từ Việt Nam, tôi không tìm thấy dấu vết nào của anh cả, anh đã ở đâu thế?” “New Orleans… nghe này, tôi không muốn nói nhiều qua điện thoại, nhưng tôi đã nhận được một gói hàng rất lạ qua bưu điện, hóa ra là có ai đó đã lần theo tôi”, tim tôi chùng xuống với tin này, tôi không cần hỏi trong gói hàng có gì, tôi có thể đoán được. “Anh có thể xuống New Orleans được không?, tôi có giúp anh kiếm một công việc và một chỗ nghỉ nếu anh cần. Anh có chuyện gì khẩn cấp mà buộc phải ở lại New York không?” Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khi nghe Benoit nói trên điện thoại, hai cảnh sát NYPD đang đánh tơi tả một gã nào đó bằng gậy, một nhóm nhỏ gần đó thì ném chai về phía họ.


“Ừ, tôi nghĩ mình có thể cần phải ra khỏi New York một thời gian, tôi có thể đến đó trong vài ngày”, tôi trả lời. Benoit đã cho tôi biết chi tiết về nơi gặp mặt, anh không muốn nói chuyện qua điện thoại vì có vẻ như anh nghĩ có ai đó đang nghe lén. Sáng hôm sau, tôi nhét mấy món đồ ít ỏi của mình vào chiếc vali cũ kỹ và lên đường, tôi không thèm báo trước với chủ nhà của cái căn hộ tồi tàn này của mình. Bạn có thể nghĩ tôi điên rồ khi quyết định đi đến New Orleans, thực ra tôi có thể chỉ đơn giản là cúp máy và quên mất Benoit và những điều chúng tôi đã thấy, nhưng tôi không phải người như vậy.


Anh ấy cần sự giúp đỡ của tôi, chúng tôi đã trải qua những điều tồi tệ cùng nhau ở Việt Nam và tôi không muốn tỏ ra ngầu lòi gì đâu, tôi chỉ thực sự cảm thấy chúng tôi đã sa xuống một dạng địa ngục nào đó trong cái hầm đó. Tôi không định bỏ mặc anh ấy giải quyết chuyện này một mình. Cảm giác thật tốt khi được ra khỏi New York, chuyến đi dài và mùa hè thật oi ả, tôi lái xe không ngừng nghỉ, muốn đến New Orleans nhanh nhất có thể, tôi tránh những thành phố lớn và chỉ dừng lại để ngủ. Vào đêm cuối của chuyến đi, tôi dừng lại ở một khách sạn rẻ tiền gần một thị trấn nhỏ, khoảng một giờ sau Birmingham. Tòa nhà lễ tân khá nhỏ, quầy lễ tân có một người đàn ông trung niên, tôi đoán ông là chủ vì trên tường có bức ảnh ông ấy trong bộ quân phục khi còn trẻ, có vẻ như bức ảnh đã được chụp ở đâu đó ở châu Âu trong Thế chiến thứ hai.


“Anh trông có vẻ mệt mỏi đấy, một chuyến đi dài hả?, anh đi đâu vậy?”, chủ khách sạn nói chuyện với tôi khi đưa chìa khóa ra, “Houston”, tôi nói dối trong lúc lộn xộn với đống đồ đạc. Tôi cũng không chắc tại sao tôi phải nói dối nữa, mấy cái người theo dõi Benoit có lẽ không thể điều hành hết mọi khách sạn tồi tàn giữa New York và New Orleans đâu nhỉ, chỉ là theo bản năng mà thôi. Tối đó tôi mệt đến nỗi ngủ luôn trong bộ quần áo cũ, khi vừa chạm đầu vào gối. Tôi thức dậy trong một đống mồ hôi vì những tiếng thì thầm của một người phụ nữ. Bên ngoài vẫn còn tối, tôi lấy khẩu súng từ túi ra và nhét vào phía sau quần jeans. Tôi rời khỏi phòng và đi theo giọng nói đó, cùng một câu lặp đi lặp lại, “Trong hẻm núi, đến nhà đỏ”.


Tôi xuống cầu thang đến tầng trệt, giọng nói trở nên to hơn khi tôi tiến gần đến máy bán soda ở góc khách sạn, một chiếc đèn ở trên sáng đỏ trong đêm. “Trong hẻm núi” giọng nói đó tiếp tục, như thể nó ở trong đầu tôi vậy. “Tôi không cố ý…”, tôi lẩm bẩm trả lời, mà không cho ai nghe cả. “Có chuyện gì vậy, anh đẹp trai, anh muốn chơi ‘hẻm núi’ của tôi sao?, Ồ, điều đó sẽ tốn của anh khá nhiều đấy, thường thì khách hàng của tôi không nói bằng mấy ngôn từ hoa mỹ như vậy”, cô ấy cười. Đó là một cô gái mại dâm, mà còn là một người ăn mặc rất lịch sự, có phần quá lịch sự và tinh tế cho cái nghề này này. Cô ta đang dựa vào máy bán soda được thắp sáng.


“Xin lỗi, tôi chỉ nói một mình thôi”, tôi đáp, những lời thì thầm đã ngừng lại. “Anh đang tìm người hẹn hò à?”, cô ta hỏi một cách bình thản. “Không, tôi ổn, cảm ơn, chỉ ghé lấy một chai soda thôi”, tôi nhanh chóng trả lời. “Anh chắc chứ?, đường về New Orleans xa lắm đấy, em có thể giúp anh thư giãn”, cô ta nói, liếm môi. Tâm trí tôi đang kín đặc nỗi sợ nhưng tôi cố giữ bình tĩnh, “Tôi đang trên đường đến Houston”, tôi bình tĩnh đáp lại. “Trò cười, chủ khách sạn nói anh đang trên đường tới New Orleans”, cô ta phản bác một cách khô khan.


“Chà, vậy thì chủ khách sạn nói nhầm rồi”, tôi trả lời, cùng tông với cô. “Đó là những gì tôi đã nói với ông ấy khi ông ta bảo anh đang trên đường đến Houston, tôi đã phải dùng chút quyến rũ của mình để thuyết phục ông ấy, nhưng cuối cùng ông cũng nói với tôi rằng anh có bản đồ chỉ đường đến New Orleans khi anh làm thủ tục nhận phòng.” Tôi không nói gì, “Đáng buồn là ông ấy không thể cho tôi biết anh sẽ đi đâu một khi đến New Orleans”. “Ừ, có lẽ sự quyến rũ của cô không mạnh mẽ như cô nghĩ đâu.”


Tôi đáp, trong đầu toàn nghĩ đến việc rút khẩu súng ra và chĩa vào đầu cô ta. Cô ta hơi cúi đầu về phía trước, mặt cô ta sáng rực lên dưới ánh đèn của máy bán soda, cô ta khoe răng và ánh mắt mang vẻ giận dữ cuồng tín mà tôi đã thấy trong mắt bác sĩ tâm lý ở bệnh viện. “Ôi, anh đẹp trai, anh không biết tôi có thể mạnh mẽ đến mức nào đâu”, cô ta nói với sự tức giận không thể kiềm chế. Tôi với tay về phía khẩu súng sau lưng, nhưng cô ta đã lợn cợn vòng qua góc và chạy vào trong bóng đêm. “Tôi hy vọng anh sẽ tìm thấy những gì anh đang kiếm tìm”, cô ta nói, cười từ đâu đó sâu trong bóng tối.


Chạy theo cô ta vào đêm tối là một việc ngốc nghếch. Tôi hoảng hốt chạy về phía tòa nhà tiếp tân của khách sạn. Có thể cô ta đã tiết lộ một chút thông tin nào đó cho chủ khách sạn, tôi cũng biết cách để thuyết phục một ai đó chứ, xương sườn gãy thường giúp người ta nhớ lại quá khứ. Có thể ông ta không có thông tin gì quá đáng, nhưng dù sao đi nữa tôi cũng sẽ dạy cho ông ta biết về mối nguy hiểm khi tiết lộ bí mật với những người phụ nữ lạ mặt mời mọc. Tòa nhà tiếp tân nhỏ có ánh sáng lờ mờ, không có ai đứng sau quầy, tôi bấm chuông nhưng không có phản hồi. Không có đủ kiên nhẫn, tôi đi vòng qua quầy, mở cửa văn phòng phía sau. Khi tôi mở cửa, mùi kim loại của máu tươi xộc vào mũi, tôi che mũi lại.


Chủ khách sạn nằm chết ngửa mặt lên, miệng bị dán băng dính, hai mảnh kính đã được nhét vào hốc mắt của ông ta. Thằng cha này lì lợm thật, tôi đã đánh giá khá thấp ông ta, ông không mắc mưu trò quyến rũ của con đàn bà đó, vậy nên cô ta phải tra tấn ông ấy để lấy thông tin ít ỏi, hoặc có thể chỉ để gửi cho tôi một thông điệp gì đó. Tôi không định ở lại đây chờ cảnh sát, có thể đây là một cái bẫy, dù sao tôi cũng không có ý định ở lại đây. Tôi lau tay lên tay nắm cửa văn phòng, dấu vân tay của tôi có thể được giải thích ở đâu đó trong tòa nhà nhưng không phải ở cửa văn phòng phía sau, nơi có hiện trường án mạng.


Tôi đi về phòng mình với sự bình tĩnh ra mặt nhất có thể, tôi thu dọn đồ đạc và trèo vào xe. Tôi lái xe ra ngoài đêm tối, hy vọng là sáng sớm mai tôi sẽ đến New Orleans. Tôi chắc chắn một điều, những người này, dù họ là ai, muốn giọng nói đó tiếp tục thì thầm với tôi, họ muốn biết nó đang dẫn tôi đi đâu. Có lẽ lý do duy nhất khiến tôi còn sống, là khi họ nhận ra rằng tra tấn tôi có thể sẽ rất phiền phức, nên là họ chỉ theo dõi tôi, nếu không tôi sẽ kết thúc như chủ khách sạn. Khẩu súng đè vào lưng quần tôi, vì vậy tôi lấy nó ra khỏi quần jeans và mở ngăn đựng găng tay để bỏ vào trong.


Khi ngăn đựng găng tay mở ra, một bức tượng nhỏ bằng đất sét rơi ra ngoài, tôi không cần nhìn vào, tôi đã biết đó là gì. Tôi bỏ súng lại và tiếp tục lái, nghĩ rằng nơi an toàn là nơi đồng người, nên tôi tăng tốc về phía New Orleans, Benoit sẽ có kế hoạch, anh ấy luôn như vậy. Phần 4 : Tôi đã lái xe lao qua màn đêm, cầu nguyện cho cái máy của chiếc xe Impala cũ kỹ của tôi không hỏng giữa chừng, vì chuyến đi khó khăn. Trời đã sáng khi tôi vượt qua hồ Pontchartrain, nó phát sáng màu vàng với ánh mặt trời mọc, nhưng thực ra nó lại là một cái ao có màu nâu khi tôi lại gần thành phố. Benoit vừa mới bảo tôi đến Khu Pháp và gọi một số điện thoại riêng cho anh ấy khi đến nơi. Khu Pháp không phải là thiên đường du lịch như bây giờ, nhưng vẫn khá phổ biến, đặc biệt với những người lính đang nghỉ phép tìm kiếm những cuộc vui rẻ tiền, nơi này thì thật tồi tàn.


Nhưng một thành phố như vậy có thể là một phước lành ngụy trang cho những người như tôi, những thành phố tồi tàn dễ dàng để biến mất nếu cần, và thường có một số cựu quân nhân không có đạo đức sẵn lòng bán cho bạn một ít vũ khí. Và tôi là ai mà phán xét một người không có đạo đức chứ, tôi vừa mới trốn khỏi một hiện trường giết người đây. Tôi đậu xe gần một cái điện thoại công cộng và bước ra ngoài. Tôi lúng túng với một ít tiền lẻ và quay số mà Benoit đã cho tôi. Điện thoại reo như thể kéo dài cả đời, rồi có ai đó nhấc máy. “Là tôi, tôi đã đến đây” Tôi nói mà không cung cấp thêm thông tin nào khác.


“Rất vui khi nghe giọng của anh, tôi tưởng là đã có chuyện gì xảy ra với anh trên đường đấy” Benoit đáp lại với giọng nhẹ nhõm. “Ừ, mà có chuyện xảy ra với tôi trên đường thật, tôi sẽ kể cho anh khi gặp mặt” Tôi đáp trong khi nhìn quanh đường phố qua lớp kính bẩn. Benoit cho tôi một địa chỉ cách đó vài dãy nhà, anh ấy không nói gì thêm qua điện thoại. Tôi lái xe đến địa chỉ đó, nó nằm trên một con phố yên tĩnh, khi đến nơi, tôi nghĩ mình đã nhầm, đó là một cửa hàng nhỏ kỳ lạ chứ không phải một căn hộ. Cửa hàng có tên là tạp hóa và đồ dùng của Marie Cửa hàng tạp hóa kỳ lạ nhất mà tôi từng thấy, rèm đen che kín cửa sổ, và không có nhiều dấu hiệu của sự sống.


Tôi đẩy cửa vào với chút lo lắng, một cái chuông nhỏ kêu và tôi bị đánh thức bởi mùi của các loại thảo mộc đang cháy. Tôi bước vào cửa hàng, nó đầy những món đồ cổ và những thứ mà tôi sẽ gọi là “đồ Voodoo”, mặc dù tôi không hoàn toàn nắm được sự khác biệt giữa HooDoo, Voodoo và tất cả những tôn giáo châu Phi khác. “Cuối cùng anh cũng đến” Benoit xuất hiện từ phía sau quầy với vẻ mặt nhẹ nhõm, anh ấy đi tới ôm tôi, vỗ tay vào lưng tôi mạnh đến mức làm tôi hụt hơi một chút.


"Nhẹ nhàng thôi, tôi sắp gãy xương sườn rồi đây này”, Tôi nói và cười một chút. “Xin lỗi, chỉ là rất vui khi thấy anh mà thôi” Anh ấy đáp lại khi buông tôi ra. “Anh đã không gọi trong vài ngày, tôi tưởng anh sẽ không đến.” “Tôi suýt nữa thì không đến được đấy, có chuyện xảy ra với tôi khi đang trên đường đến đây” tôi đáp. Tôi muốn kể cho Benoit tất cả chi tiết về chuyến đi của mình nhưng tôi lại cảm thấy bối rối trước cửa hàng mà chúng tôi đang đứng. “Marie’s? Ai sở hữu cái chỗ này, chị gái anh à?” Tôi hỏi, thắc mắc. “Cái chỗ này hồi xưa của bà ngoại tôi, chị gái tôi được đặt tên theo bà, bà chết ngay sau khi chúng tôi được gửi đi Việt Nam. Chị tôi đã chăm sóc nơi này trong thời gian tôi đi lính, vừa mới về thì chị ấy đã chuyển đến L.A., chị ấy có ý định trở thành ca sĩ, bà ngoại để lại cho chị ấy một ít tiền và tôi thì được cái cửa hàng kỳ quái này.”


Benoit nói trong khi quét tay qua những món hàng kỳ quái trong cửa hàng. “Mà người ta mua cái…đồ này à?” Tôi nói, chỉ vào một cây thảo mộc lạ thường trên kệ. “Công việc vẫn khá tốt, cửa hàng này hơi kín đáo nên du khách nghĩ rằng họ đã tìm được một tiệm Voodoo thật sự. Đừng lo, 95% đồ này hoàn toàn vô hại,” Benoit nói với nụ cười. “Còn 5% còn lại?”, tôi hỏi với vẻ hoài nghi. “À, mấy cái đó không dành cho du khách, tôi để những món đó ở trong kho phía sau. Còn có một món tôi nhận được qua bưu kiện, nói đến đó, chuyện gì đã xảy ra với anh trên đường vậy” Benoit đi đến cửa và khóa lại. Tôi kể cho Benoit về bệnh viện ở Nhật, tượng nhỏ và người phụ nữ ở motel, chỉ có một chi tiết tôi không nói là vụ giết người của chủ motel và những lời thì thầm, tôi không muốn làm anh ấy hoảng sợ hay lôi kéo anh ấy vào một vụ giết người mà tôi có thể bị buộc tội.


Benoit lắng nghe với vẻ lo lắng. “Tôi cũng nhận được bức tượng giống thế trong bưu kiện, nó được gửi đến địa chỉ cũ của tôi nên tôi không biết nó đã ở đó bao lâu, có lẽ từ lúc tôi trở về từ Việt Nam, không có cách nào biết chắc được, nó không có dấu bưu điện, ngay khi vừa nhận được, tôi đã gọi cho anh ngay đấy.” “Tôi cảm thấy khá lo lắng về bức tượng, nên đã kiểm tra tất cả sách ở đây trong cửa hàng xem có cuốn nào có thông tin về bức tượng hay người phụ nữ trong đó không, nhưng không tìm thấy gì cả.” Benoit tiếp tục. “Tôi cảm thấy bế tắc, nên đã gọi cho Đại học ở Baton Rouge, họ chỉ tôi đến một giáo sư đã nghỉ hưu, một chuyên gia về các tôn giáo cổ. Tôi đã đến thăm ông ấy, ông ta sống cách đây khoảng một giờ ở giữa chốn không người, nhà thì nhìn đẹp lắm, nhưng đất thì gần như toàn là đầm lầy.” “Ông ấy có nhận ra bức tượng không?”


Tôi hỏi đầy hồi hộp.


“Hơi hơi, ông ấy nói rằng bức tượng này không thực sự là của Châu Phi hay Mỹ, bức tượng này là một bản sao thô sơ hiện đại, nhưng người phụ nữ được khắc họa có thể là ‘Mẹ Của Sự Im Lặng’, một vị thần cổ mà người ta thờ phụng trong các cộng đồng ven biển khắp thế giới, nhưng tôn giáo của bà có thể đã biến mất ít nhất một thiên niên kỷ trước. Rõ ràng bà có thể ban phước cho những người thờ phụng bà niềm hạnh phúc vĩnh hằng, nếu họ thờ cúng tại đền thờ của bà. Vấn đề là không ai biết đền thờ của bà ở đâu, theo giáo sư thì có lẽ nó không tồn tại. Ông ấy bảo tôi cho ông ấy vài ngày để nghiên cứu thêm.” “Những người trong đường hầm trông chắc chắn không giống như họ đã tìm thấy hạnh phúc vĩnh hằng, mà nơi đó cũng chẳng giống đền thờ gì cả, chỉ là một cái miếu nhỏ,” tôi trầm ngâm “Và… ông ấy có liên lạc lại với anh không?”


“À… đó là cách đây vài ngày, tôi đã gọi cho ông ấy cả buổi sáng nhưng ông ấy không bắt máy.” Benoit trả lời. “Chết tiệt, chúng ta phải lái xe đến đó…ngay bây giờ… và mang theo vũ khí,” tôi nói và khoác áo lên. “Chúng ta có nên cho ông ấy thêm một ngày không?” Benoit nói, có chút bối rối. “Ông ấy có thể không có thêm ngày nào nữa đâu, Benoit.” Tôi nói khi chúng tôi bước ra ngoài, Benoit khóa cửa lại, để bảng "Đã đóng". Chúng tôi lái xe ra khỏi thành phố về phía tây trong xe của Benoit, trời nóng vãi cứt. “Hồi còn ở trong đường hầm ở Việt Nam ấy, tôi nhớ anh đã nói anh đã thấy cái gì đó tương tự trước đây?” Tôi hỏi Benoit. “Ừ thì tôi đã hơi phóng đại một chút.


Nghe này… khi tôi mười bốn tuổi, một nghị viên địa phương bị buộc tội một số chuyện khá nghiêm trọng, vài người phụ nữ địa phương đã đưa ra những cáo buộc nghiêm trọng về ông ta, nhưng ông ấy là người da trắng và quyền lực nên đã có thể mua chuộc để thoát khỏi rắc rối. Nhưng dân địa phương không hài lòng với kết quả đó. Một đêm, bà ngoại tôi đã chở tôi đến giữa chốn không người, đến một buổi...lễ.” Ký ức của tôi về sự kiện đó khá mờ nhạt, có rất nhiều người đang hô hào, và có một thầy tu VooDoo, họ đã ép Nghị viên uống một chất lạ, mắt của Nghị viên như mất hồn, như kiểu đèn bật nhưng không có ai ở nhà.


Sau đó, Nghị viên tuân theo mọi mệnh lệnh của thầy mo, đi... cười... nhảy, ông ấy giống như một con rối, rồi họ chỉ thả ông ấy ra và ông ấy lang thang vào màn đêm. Cuối cùng cảnh sát tìm thấy ông và đưa ông về nhà, theo báo chí thì ông có vẻ ổn, dù hơi bối rối, chắc chắn là ông không nói về lễ nghi nào cả. Vài ngày sau, theo báo chí, ông nhận được một cuộc gọi ở nhà, sau khi kết thúc cuộc gọi, vợ ông thấy ông điềm nhiên đi vào bếp, cầm lấy một con dao và tự đâm vào cổ.


“Chúa ơi, câu chuyện thú vị thật đấy Benoit, đúng là một cách tốt để làm nhẹ bầu không khí”


Tôi nói với hình ảnh trong đầu. “Vậy, tôi không thấy chính xác những gì mà chúng ta đã thấy trong đường hầm trước đây, nhưng tôi đã thấy một số thứ kỳ quặc tương tự.” Benoit nói khi đạp ga mạnh hơn, chúng tôi ngồi im lặng trong khi anh ấy lái. Sau khoảng một giờ lái xe, chúng tôi rẽ khỏi con đường nhỏ và vào một con đường đất còn nhỏ hơn. Cỏ mọc cao bên đường, gã đó thật sự sống giữa đầm lầy luôn đấy. “Chỉ còn khoảng một dặm nữa thôi” Benoit thông báo khi xe của chúng tôi nhún nhảy không thoải mái trên con đường đất. Vừa lúc anh ấy nói, chúng tôi thấy một cột khói nhỏ bốc lên ở xa. “Hãy nói với tôi rằng đó không phải nhà của ông ta?”


Tôi nói với sự hy vọng. “Nhà của ông ta là căn duy nhất trên con đường này,” Benoit đáp với giọng đầy lo lắng khi chúng tôi tiến lại gần. Con đường đất chuyển thành sỏi khi chúng tôi đến gần, đó là một ngôi nhà lớn cũ, theo cách tôi nghĩ thì hơi nhỏ, nhưng nó cũng nhỏ theo kiểu nhà đồn điền, vẫn có một sự trang trọng nhất định, và nó cũng đang bùng cháy dữ dội. Những làn khói đen dày đặc đang cuồn cuộn từ căn nhà, nhưng lửa chưa hoàn toàn thiêu rụi nó, có thể thấy lửa vừa mới bùng phát gần đây. Xe dừng lại trên bãi cỏ, chúng tôi cùng nhảy ra ngoài.


Benoit chạy đến hiên nhà, gần một ống nước mưa có một thùng nước, anh nhúng đầu vào đó khiến người ướt sũng, rồi kéo chiếc áo ướt lên để che miệng và mũi. “Cậu đang đùa đấy à, chúng ta không thể vào đó,” tôi gầm lên. “Tôi không thể để gã đó chết cháy được, tôi đã đưa gã vào cái rắc rối này.” Benoit đáp lại, giọng nói bị rè bởi chiếc áo. Tôi chần chừ một giây rồi theo gương Benoit, nhúng đầu vào thùng nước. Chúng tôi đứng ở cửa ra vào, mặt che kín sẵn sàng để vào. Chuyện này sẽ không kết thúc tốt đẹp đây, tôi nghĩ khi Benoit đá văng cửa. Nhiệt độ thật khủng khiếp, khói đang tràn ngập trong nhà, may mắn là những ngôi nhà cũ thường có trần cao, khói cuộn lên như một cái chăn đen ominous trên đầu chúng tôi, sớm hay muộn nó sẽ làm đầy căn nhà... và cả phổi của chúng tôi nếu không cẩn thận.


Benoit dẫn đường. “Phòng làm việc của ông ta ở phía sau, đấy là nơi ông làm việc.” Benoit hét lên qua chiếc áo của mình. Chúng tôi nhanh chóng tiến đến phòng làm việc, Benoit sờ vào cửa để kiểm tra xem có nóng không. “Cửa ấm, giữ sát vào bên.” Benoit nói khi anh ấy đá mạnh vào cửa rồi cúi người sang bên trái khung cửa. May mắn là không có luồng gió mạnh, căn phòng đang bùng cháy nhưng vẫn còn đủ oxy, lửa thiêu đốt trần và liếm tường. Rồi chúng tôi thấy ông ấy, giáo sư nằm chết trong ghế, đầu gục xuống bàn làm việc lớn, một vũng máu chảy ra từ cổ... và hai mảnh kính lồi ra từ hốc mắt của ông.


Phần 5:


Ngọn lửa liếm vào các bức tường và lớp khói cuộn lại thành những làn sóng đen dày đặc trên đầu chúng tôi. Benoit và tôi đứng bên xác của giáo sư, chúng tôi không thể nhìn thấy mặt nhau nhưng sự sợ hãi rõ ràng hiện lên trong mắt Benoit. “Kiểm tra ngăn kéo đi, tôi sẽ kiểm tra túi của ông ta,” Benoit ra lệnh. “Còn dấu vân tay thì sao?” tôi nói trong hoảng loạn. “Anh đùa à? Chỉ trong năm phút nữa thì thậm chí sẽ không còn xác, chứ đừng nói đến dấu vân tay,” Benoit hét lên.


Nhận ra sự ngốc nghếch của mình, tôi bắt đầu lục lọi qua các ngăn kéo bàn khi Benoit nhận nhiệm vụ khó khăn là kiểm tra túi của cái xác. Cả tòa nhà như một biển âm thanh khi chúng tôi làm việc, lửa gào thét và tòa nhà rên rỉ dưới sức nặng của chính nó. “Có bản sao!”, tôi nói khi lấy ra vài tờ giấy mỏng từ ngăn kéo bàn, tôi khó khăn lắm mới đọc được chữ viết trong khói, nhưng tôi thấy từ ‘Mẹ Của Sự Im Lặng’. Đối với những ai không nhớ chuyện hồi xưa, thì đây là cách mà mọi người sao chép trước khi ai cũng có máy photocopy ở nhà, có thể một số bạn còn trẻ đến mức không biết máy photocopy là gì. Mắt Benoit sáng lên khi nhìn thấy những tờ giấy. “Chúng ta cần phải ra khỏi đây!” Benoit không trả lời, ngôi nhà phát ra một tiếng rên rỉ không thương tiếc như tiếng thở hấp hối, giờ đây nó đang nói, và không ai trong chúng tôi cần phải được nhắc lại lần thứ hai.


Chúng tôi cùng nhau chạy về phía cửa chính khi các xà nhà bắt đầu sụp đổ. Chúng tôi lao thẳng đến xe, tôi liếc nhìn lại ngôi nhà, nó gần như đã bị bao trùm, mái nhà sụp xuống và đổ vào bên trong khi tôi nhảy vào xe, Benoit đã ngồi sau tay lái. Động cơ gầm rú khởi động, chúng tôi để lại một vệt bùn và sỏi khi phóng ra khỏi bãi cỏ và xuống con đường lái xe, xe nhảy lên trên con đường đất và chúng tôi đã đến được con đường chính trong thời gian nhanh chóng, ngôi nhà bùng cháy dữ dội phía sau.


“Những bản sao đâu?” Benoit hỏi.


Tôi lấy chúng từ túi ra và xem xét, tìm kiếm bất cứ điều gì có thể liên quan. Tôi gần như không thể đọc được chữ viết sao chép đó, mắt tôi đau rát vì khói, nhưng một vài đoạn văn đã được gạch chân bằng bút đỏ. Tôi lật giấy lại, ở mặt sau có một số ghi chú viết tay, tôi đọc một ghi chú lớn tiếng. “P.S. Ông Benoit, đáng để chỉ ra rằng bức tượng nhỏ của ông có vẻ như là rỗng, ông có nghĩ đến việc phá nó ra không? Có lẽ ông không để ý vì có vẻ như ông sợ chạm vào nó, tôi đảm bảo rằng nó hoàn toàn an toàn từ góc độ lịch sử vì nó chỉ là một bản sao hiện đại rẻ tiền. Còn về câu hỏi của ông về ‘Ngôi Nhà Đỏ’, xin hãy xem ghi chú khác của tôi.”


“Ngôi Nhà Đỏ?” tôi hỏi Benoit trong khi anh lái. “Nghe này, tôi không muốn làm cậu hoảng sợ nhưng tôi đã nghe thấy những giọng nói, bảo tôi phải đến ‘Ngôi Nhà Đỏ’,” Benoit giải thích. “Tôi đã biết là anh nghe thấy giọng nói rồi, cái gã bác sĩ tâm lý kỳ quặc ấy đã nói với tôi ở trại Zama, tôi chỉ không biết là anh nghe thấy cùng một giọng nói như tôi... không còn bí mật nào từ đây trở đi nữa, được chứ,” tôi nói với giọng tức giận. “Được rồi, không còn bí mật nào từ đây trở đi.” Benoit đồng ý.


 “Ôi... chủ khách sạn tốt bụng mà tôi đã nói với anh, thực ra ông ấy đã bị giết theo cách tương tự như người bạn giáo sư của chúng ta ở đó.” Tôi nói trong khi chờ đợi phản ứng. “Cậu đùa à? Cậu phàn nàn với tôi về bí mật mà cậu lại giấu một vụ giết người dưới mũ của mình!” Benoit phản ứng lại với sự tức giận. “Được rồi, được rồi, chúng ta đều đồng ý, không còn bí mật nào nữa,” tôi nói trong khi giả vờ đọc ghi chú qua đôi mắt bị khói làm cay. Chúng tôi ngồi im lặng trong suốt phần còn lại của hành trình. Chúng tôi đến cửa hàng, cả hai trông không khác gì tên ăn mày, Benoit mở khóa cửa và chúng tôi lảo đảo vào trong.


 Benoit đi về phòng phía sau và tôi theo sau. Phòng phía sau đủ lớn, cũng có một nhà vệ sinh. Tôi lấy những bản sao ra khỏi túi và đặt chúng sang một bên trên bàn cho an toàn. Chúng tôi thay phiên nhau vẩy nước lạnh vào đôi mắt đỏ rát, thở phào nhẹ nhõm khi làm vậy. Sau vài phút, tôi ngồi gục xuống một cột trụ mệt mỏi, Benoit lau tay và mặt rồi ném khăn cho tôi, trong khi anh ngồi xuống bàn để xem xét những tờ giấy. Benoit bắt đầu đọc lớn những đoạn đã được gạch chân. “Các tín đồ của Mẹ Im Lặng tin rằng, bà có thể mang lại cho họ hạnh phúc vĩnh cửu nếu họ tìm được ngôi đền của bà và giải phóng 'Bệnh Dịch Im Lặng'. Những người được chọn theo bà sẽ kiểm soát thế giới này nhân danh bà. Những kẻ vô tín sẽ chỉ là những cái vỏ rỗng sẵn sàng bị sai khiến, linh hồn của họ bị bắt giữ để tra tấn bởi 'Mẹ Im Lặng'. 


“Chết tiệt, nghe quen quen vậy ta” tôi nói, Benoit gật đầu suy tư khi anh chuyển sang đoạn khác. “Ngôi đền của 'Mẹ Im Lặng' được cho là chỉ có thể được tìm thấy thông qua việc xác định ba ngôi đền vàng của 'Mẹ Im Lặng' rải rác khắp thế giới, những ngôi đền này được cho là có một chút quyền lực, yếu hơn đối với người phàm và có thể nô dịch những kẻ vô tín dại dột đủ để chạm vào chúng, mà Mẹ Im Lặng sẽ lôi kéo họ làm như vậy. Những ai cưỡng lại cơn thèm muốn chạm vào ngôi đền sẽ được thưởng bằng một phần thông tin về vị trí ngôi đền của bà. Cần lưu ý rằng các ngôi đền đã được tất cả các nguồn học thuật đáng tin cậy tin rằng, đều hoàn toàn chỉ là hư cấu, huyền thoại. 


Tiếng nói phản đối duy nhất về sự thật này là một sinh viên y khoa tài năng tên là Arthur Blake, người đã đi du lịch rộng rãi ở Bắc Âu và Đông Phi để nghiên cứu văn hóa dân gian ở những khu vực đó vào giữa thập niên 1930. Anh ta tuyên bố trong một bài báo cho một tạp chí lịch sử rằng, anh đã tìm thấy hai trong số những ngôi đền, và biết rằng ngôi đền nằm gần một thành phố bên biển mà tất cả các cường quốc lớn đều tranh giành, anh tin chắc rằng thành phố đó là New Orleans. Anh ta từ chối đưa ra bất kỳ bằng chứng nào, về việc tại sao lại là thành phố đó chứ không phải nhiều thành phố khác có thể phù hợp với mô tả đã cho. Nói một cách đủ để biết, bài báo của anh đã bị chế giễu vì sự mơ hồ của nó, và nhiều người chỉ ra rằng không có nền văn minh nào trải rộng, qua các khu vực địa lý đa dạng mà anh ta tuyên bố đã tìm thấy các ngôi đền. 


Hơn nữa, nó cũng không giải thích được rằng, những câu chuyện về ngôi đền của 'Mẹ Im Lặng' đã có từ hơn một ngàn năm và không có cường quốc lớn nào tranh giành New Orleans cho đến thế kỷ 18. Sinh viên đó nhanh chóng rút lại bài báo của mình, tuyên bố rằng trong quá trình du lịch vì lý do học tập, anh đã tham gia vào các nghi lễ địa phương liên quan và sử dụng chất tâm thần.” “Cậu nghĩ giống tôi không?” Benoit hỏi trong khi tay anh run rẩy. “Ừ, số phận thật tệ, cậu đã sống gần một ngôi đền ma ám suốt cả cuộc đời rồi,” tôi đáp. “Không, thằng này giả ngu à, cái tên bác sĩ tâm lý kỳ quặc đó trong trại Zama ấy,” Benoit nói, chỉ tay vào những tờ giấy. 


“Ôi chết tiệt, không có gì ngạc nhiên cho lắm, khi hắn bị cuồng chúng ta, hắn đã tìm kiếm ngôi đền thứ ba suốt cuộc đời rồi và chúng ta đã phá hỏng nó.” 


Benoit bắt đầu đọc một trong những ghi chú viết tay của giáo sư. “Mặc dù tôi hoài nghi, tôi đã gọi cho hội lịch sử Louisiana và có một tòa nhà từng được gọi là 'Ngôi Nhà Đỏ', nó là một nhà thổ nổi tiếng được xây dựng ở vùng đầm lầy khi New Orleans lần đầu được định cư, tòa nhà đã bị bỏ hoang từ những năm 1920, nhưng không bị phá hủy vì nó là một công trình lịch sử được bảo vệ.”


 “Giáo sư có địa chỉ viết ở đây,” Benoit nói nhìn về phía tôi. “Chi tiết đó không được sao chép từ sách, nên có thể bác sĩ tâm lý và bạn gái của hắn chưa biết vị trí đó… trừ khi họ đã tra khảo thông tin từ giáo sư,” tôi gợi ý. “Tại sao lại giết giáo sư và đốt nhà nhỉ, trừ khi họ đã có tất cả thông tin cần thiết, nếu không họ vẫn cần chúng ta để tìm ngôi đền,” Benoit đáp. “Có thể giáo sư đã nói dối họ hoặc họ chỉ đơn giản là lơ là, có thể chúng ta đã làm gián đoạn họ khi đến nơi,” tôi tranh luận. 


“Chúng ta phải giả định rằng họ hoặc đã biết nơi ngôi đền ở đâu, hoặc sẽ theo dõi chúng ta nếu chúng ta đi tìm nó,” Benoit nói với vẻ lo lắng. Khi cả hai chúng tôi đang suy nghĩ về vấn đề này, tôi nhìn thấy bức tượng nhỏ trên kệ. Tôi nhặt nó lên bằng khăn tắm, cuộn nó lại và đập vào đầu bàn, tôi nghe thấy nó vỡ vụn ra thành nhiều mảnh, điều này khiến Benoit hơi giật mình. 


“Chúa ơi, cậu có thể cảnh báo tôi một chút, trước khi làm gì đó đi chứ,” Benoit mắng tôi khi tôi mở khăn tắm và đổ những mảnh vỡ ra bàn. Những mảnh vỡ xuất hiện cùng với một tờ note nhỏ viết tay: Nếu bạn tìm thấy ngôi đền, hãy phá hủy nó. Đừng để 'Những kẻ tín đồ của Mẹ Im Lặng' giải phóng bệnh dịch. Bạn đã phá hủy một trong những ngôi đền của bà, hãy hoàn thành công việc và giải phóng những linh hồn mà bà đang tra tấn. 


“Tôi đoán còn nhiều nhóm khác đang theo dõi chúng ta,” tôi nói trong sự hoang mang. “Được rồi, đủ thông tin về cái quái gì đó rồi, chúng ta nên đi đến các ngôi đền và tàn phá nó, nhưng tôi sẽ không đi đến ngôi đền đó nếu không có một ít vũ khí hạng nặng trong tay đâu.” Benoit nói với giọng quyết tâm. “Cậu có quen biết ai cung cấp hàng nóng không?” Tôi hỏi.


 “Ôi, có chứ... tôi biết một anh bạn,” Benoit trả lời, đẩy một cái tủ kho sang một bên, để lộ ra một cánh cửa nhỏ.

Đăng nhận xét

Post a Comment (0)

Mới hơn Cũ hơn