Ba Câu Chuyện Kinh Dị Từ Reddit

 

Tôi đã thấy một cái gì đó, trên tin tức buổi tối mà tôi không thể giải thích được. 


Tối qua, tôi và hội bạn thân làm việc cùng công ty, đã đến quán rượu yêu thích của mình. Không phải là một nơi sang trọng, nhưng bạn biết đấy, bia thì rẻ và đủ gần nhà để tôi không phải lái xe. Bữa tối bắt đầu khá bình thường, bốn chúng tôi chen chúc vào một cái bàn nhỏ ở góc, chủ yếu là nói chuyện về công việc và châm biếm ông sếp của chúng tôi. Vì là giữa tuần nên không có nhiều người khác xung quanh, có lẽ khoảng tám hoặc chín người trong toàn bộ quán. Mọi người chỉ giữ sự riêng tư cho mình, kiểu như những người mà bạn mong đợi sẽ thấy ở một quán rượu vào thứ Tư.


Dù sao thì, từ chỗ tôi ngồi, tôi có một cái nhìn khá tốt về chiếc TV ở phía sau quầy bar. Jessie, người phục vụ rượu, đang lười biếng chuyển kênh và bỏ qua kênh tin tức địa phương của chúng tôi. Có một chớp lóe ngắn màu cam và đỏ trên màn hình mà tôi ghi nhận là có một vụ cháy xảy ra ở đâu đó, rồi biến mất khi Jessie chuyển sang kênh tiếp theo. Một điều gì đó về hình ản này, trông quen thuộc một cách kỳ lạ.


“Này Jess, có thể chuyển lại kênh vừa rồi không?” Tôi gọi với cô ấy.


Tin tức trên TV quay lại, và đột nhiên tôi nhận ra tòa nhà trong khung hình. Đó là tòa nhà của tôi, và nó đang bùng cháy.


Chu cha má ơi,” tôi nói, đủ lớn để một vài người theo dõi ánh mắt của tôi lên màn hình tivi. “Đó là căn hộ của tôi!”


Đám đông trong quán bar trở nên im lặng một cách lạ thường, mọi người đều nhìn lên màn hình. Màn hình cho thấy một cảnh quay rộng bên ngoài tòa nhà của tôi. Camera phải được đặt ở phía bắc của khu phố, vì tôi nhận ra nhiều cửa hàng ở tầng trệt - quản lý tài sản, tiệm giặt khô, cửa hàng tiện lợi, v.v. Góc trên bên trái của tòa nhà đang bùng cháy. Đó không phải là một đám cháy lớn theo bất kỳ nghĩa nào, nhưng có vẻ như một vài căn hộ giữa bốn tầng trên cùng, đã bị ngọn lửa bao vây.


“Chúa ơi, bạn của tôi ơi,” một đồng nghiệp của tôi nói. “Cái đó, uh... thật tồi tệ.” Có một sự thì thào khó chịu chứa sự đồng tình đang diễn ra quanh cái bàn. Ý tôi là, tôi không trách họ, tôi cũng không biết phải nói gì trong tình huống này. “Đúng vậy,” tôi đồng ý, cũng rụt rè như vậy. May mắn là căn hộ của tôi chỉ ở khoảng giữa và nằm ở phía tây của tòa nhà. Tôi bắt chéo ngón tay, hy vọng đồ đạc của tôi sẽ ổn.


Camera chuyển sang một phóng viên tại hiện trường. Anh ấy đứng ở xa hơn một chút, nhìn vào các cửa hàng ở phía nền đang phát trên TV, tôi có thể thấy anh ấy đang ở bên kia đường ở góc tòa nhà phía tây bắc.


“Lực lượng cứu hỏa sẽ có mặt tại hiện trường bất kỳ lúc nào,” anh ấy đang nói, “và hy vọng họ sẽ có thể kiềm chế ngọn lửa khủng khiếp, này trước khi nó lan rộng hơn nữa. Như tôi đã nói trước đó, thật may mắn là mọi người đều đã có thể sơ tán khỏi tòa nhà trước khi mọi thứ trở nên tồi tệ hơn, nếu không thì, ai biết được sẽ có những sự kiện bi thảm nào có thể xảy ra?!.”


“Anh ta thật sự đã nói quá lên,” một đồng nghiệp khác của tôi trêu chọc. Tôi cười một chút. Dẫu sao, vào thời điểm này thì thực sự không có vẻ gì là quá tồi tệ.


Nhưng rồi, một vài giây sau: “Uh... chờ chút,” phóng viên trên TV nói, “Chúng tôi đang nhận được thông tin cập nhật. Có vẻ như... chờ một chút, trong khi chúng tôi điều chỉnh lại camera.” Camera trước đó bị khóa bắt đầu di chuyển, góc quay tập trung vào một khu vực của tòa nhà khoảng giữa phía tây. Tất cả đèn trong tòa nhà đều tắt ngoại trừ một cái. Tôi cảm thấy một cảm giác kỳ lạ lan tỏa khi tôi bắt đầu đếm các cửa sổ từ dưới lên.


Lên năm tầng, qua hai tầng. Đó là chỗ ở của tôi. Tôi thề rằng tôi đã tắt cái đèn đó rồi cơ mà, lúc đầu tôi nghĩ vậy. Sau đó, tôi nhìn thấy nó.


Có một... người, đứng trong cửa sổ nhà của tôi. Camera đang phóng quá xa để có thể nhận ra các đặc điểm, nhưng rõ ràng đó là một người đàn ông và rõ ràng anh ta đang đứng trong căn hộ của tôi. Tôi nhìn với sự sợ hãi khi camera phóng gần hơn, phóng viên tiếp tục luyên thuyên về "linh hồn bị bỏ quên, anh chàng xấu số vẫn bị mắc kẹt trong ngọn lửa đó." Khi hình ảnh gần lại, tôi bắt đầu nhận ra nhiều chi tiết hơn.


Người đó... đang nhảy múa. Hoặc cái gì đó. Tôi không thực sự biết mô tả như thế nào, nhưng anh ta đang di chuyển rất nhiều, và mọi thứ anh ta làm đều có một nhịp điệu kỳ quặc. Anh ta bắt đầu vẫy tay trong không trung, qua lại, qua lại, rồi anh ta vẫy chúng lên xuống bên cạnh. Sau đó anh ta đấm cả hai tay xuống mặt kính. Rồi anh ta lại vẫy tay trên đầu, qua lại. Mọi thứ anh ta làm đều theo đúng một nhịp điệu. 1, 2, 3, 4, 1, 2, 3, 4. Anh ta bắt đầu nhảy lên nhảy xuống, vẫy tay qua đầu như thể đang cố gắng thu hút sự chú ý của ai đó từ xa, nhưng mọi thứ vẫn theo đúng nhịp điệu đó. Lặp đi lặp lại. 1, 2, 3, 4, 1, 2, 3, 4.


"Cái quái gì vậy," tôi nói, giọng nói của tôi như một tiếng thì thầm khản đặc. Rồi camera lại gần hơn, và cuối cùng chúng tôi có thể nhận ra các đặc điểm của người đó.


Trông gần như hoàn toàn giống tôi. Anh ta mặc đúng bộ quần áo mà tôi đang mặc bây giờ, bộ quần áo mà tôi đã thay trước khi rời khỏi căn hộ để đi làm. Khuôn mặt của anh ta cũng trông gần như giống y như tôi, ngoại trừ đôi mắt của anh ta. Đôi mắt của anh ta quá lớn so với một người bình thường. Anh ta cũng có vẻ mặt gần như buồn cười vì sợ hãi... tôi thậm chí không biết phải mô tả nó như thế nào. Hãy tưởng tượng như thể ai đó đang giả bộ trông mình thật đáng sợ đi, như kiểu đang đùa ấy. Nó gần như có vẻ buồn cười nếu hoàn cảnh khác đi, nhưng giờ thì chỉ cảm thấy cực kỳ khó chịu.


Không ai trong quán bar nói gì bây giờ. Mọi người đều tập trung vào TV. "Người" vẫn đang lắc lư và vẫy tay, đấm tay vào mặt kính hoặc nhảy xung quanh. Tôi gần như không nghe thấy tiếng phóng viên, đang đề cập đến việc lính cứu hỏa đã xông vào tòa nhà và giờ đang hướng đến tầng của tôi. Ôi trời, tôi nghĩ nát óc mà vẫn không thực sự hiểu chuyện gì đang xảy ra. Xin đừng có ai vào trong đó.


Tôi giương mắt nhìn chằm chằm vào màn hình. Từ góc này, bạn có thể chỉ vừa thấy được đỉnh cửa trước của tôi qua cửa sổ, không xa lắm so với chỗ sinh vật này đang vung vẩy. Hiện tại, nó đang giữ khuôn mặt trong tay và lắc đầu từ bên này sang bên kia, như thể đang nói không. Bỗng cửa phía sau nó bật mở, có lẽ, các lính cứu hỏa đã vào căn hộ của tôi.


Sinh vật đó ngừng di chuyển. Trong một giây, tôi thấy vẻ mặt của nó thay đổi. Vẻ mặt buồn cười vì sợ hãi đã biến mất, thay vào đó là một nụ cười to với hàm răng nhọn hoắt. Rồi đèn tắt.


Chúng tôi chỉ ngồi đó, nhìn chằm chằm vào màn hình khi camera từ từ zoom ra từ cái cửa sổ giờ đã tối. Không ai nói gì khi chúng tôi im lặng thanh toán hóa đơn và rời đi. Tôi đã đi thẳng đến nhà chị gái tôi bên khu phố, và xin ở lại với cô ấy. Tôi nói với cô ấy rằng có một vụ cháy ở căn hộ của tôi và chỉ vậy thôi. Khi tôi cố gắng tìm đoạn video từ tin tức trên mạng vào tối đó, có vẻ như họ đã cắt bỏ phần cuối cùng.


Tôi không biết có ai trong subreddit này biết cái đó là gì không, nhưng tôi hy vọng họ không dập tắt ngọn lửa đó đi. Tôi hy vọng họ để cả cái nơi quái quỷ đó cháy hết con mẹ nó luôn cho rồi.



 

--

 

Cuộc trò chuyện kỳ lạ của tôi, với một người lạ trên xe buýt 


"Hả?" Tôi hỏi và gỡ một bên tai nghe ra. 


"Ông nói là ông thích đôi giày boots của cháu đấy," người đàn ông lặp lại. 


"Ôi, cảm ơn ông." 


"Ông đã có cả chục đôi giống y như vậy trong nhiều năm—một đôi giày thoải mái để làm việc, cháu biết không?" 


"Chắc chắn là như vậy rồi, cháu dùng chúng mỗi ngày trong công việc đấy." 


"Chỗ đó ở đâu?" 


"Công ty Xây dựng Turner." 


"À, đúng rồi, đúng rồi. Cháu đang xây một cái gì đó to lớn ở trên Đại lộ East, phải không?" 


"Vâng, thưa ông. Nó sẽ là một trong những công trình lớn nhất trong thành phố." 


"Có vẻ như vậy. Ông cũng từng làm trong ngành xây dựng, cháu biết không? Đó đã là một thời gian rất lâu về trước. Ông đã bắt đầu làm khi mẹ cháu có lẽ vẫn còn là một đứa trẻ." 


"Ôi, vậy à? Làm việc cho một công ty, tự do, hay…?" 


"Bố ông có một doanh nghiệp xây dựng và mộc nhỏ. Bố đã nhận ông làm khi ông khoảng 15 tuổi. Đó đã là vào năm 1962! Công ty nhà ông chủ yếu xây nhà, nhận thầu một ít khu chung cư nhỏ—không có gì lớn như cái mà cháu đang làm đâu." 


"Vậy ông có thích công việc đó không?" 


"Chà, cháu đừng hỏi thừa vậy! Ông thích lắm chứ. Làm việc cả ngày ấy, giống như có thẻ thành viên tập gym miễn phí vậy! Haha! Thêm vào đó, có tất cả những đặc quyền đi kèm với nó nữa cơ." 


"Đặc quyền?" 


Ông ấy cười. "Cháu có giữ bí mật được không, chàng trai?" 


"Vâng, thưa ông." 


"Cháu có hay chơi ở công trường xây dựng khi còn nhỏ không? Khi ông còn bé, ông và lũ bạn thường lẻn vào những ngôi nhà đang xây và khám phá chúng. Có thể đã làm vỡ một vài chai ở đây và ở đó." 


"Vâng! Hàng xóm của cháu và cháu cũng thường làm như vậy khi cháu còn nhỏ. Nhà cháu là một trong những ngôi nhà đầu tiên được xây trong khu phố, sau đó những ngôi nhà khác đến sau. Bọn cháu có lẽ đã khám phá mọi nhà trong khu trước khi chúng hoàn thành—khi chúng chỉ là những bộ khung bằng gỗ—có thể cũng đã làm vỡ vài chai nữa, thật lòng mà nói là vậy." 


"Tất nhiên rồi. Ai mà không từng làm thử chứ, khi có cơ hội? Nhưng đó chỉ là những thứ trẻ con mà thôi. Những đặc quyền thực sự mới đến sau này trong cuộc sống, khi ông đã trưởng thành." 

 

"Ôi?" 


"Ôi có chứ, chàng trai. Hãy tưởng tượng điều này. Năm 1980, không có điện thoại di động trong tầm mắt. Cháu nói chuyện với một cô gái xinh đẹp ở quán bar địa phương và cảm thấy thân thiết. cháu kể cho cô ấy về dự án xây dựng mới của cháu, và cô ấy muốn đi xem."


"Uh huh."


"Vậy thì cháu đưa cô ấy đến đó! Cháu và cô ấy sẽ ở một mình trong một bộ khung của ngôi nhà đang được xây, như cháu đã nói."


"Không phải sẽ riêng tư hơn một chút nếu đưa cô ấy về nhà mình sao?"


"Riêng tư hơn, chắc chắn rồi, có thể, nhưng sẽ hơi lộn xộn với bẩn xíu."


Tôi ngừng lại. "Bẩn á, theo cách nào?"


"Chà, cháu không thể đơn giản chỉ dẫn một cô gái đến công trường xây dựng vào ban đêm chỉ để… cháu biết mà."


"Không, cháu không biết."


"Để xử lý dễ dàng đấy, chàng trai."


"Xử lý…?"


"Cháu chặt cô gái ra, hoặc làm bất cứ điều gì mà cháu thích. Cháu làm bất cứ điều gì cháu muốn với cô ấy và cháu đặt cô ấy dưới sàn nhà. Cháu chôn cô ấy với những bộ quần áo dính bẩn của cháu ở đó nữa. Khi công trình hoàn thành, không ai sẽ thấy những thứ đó nữa. Nó sẽ biến mất. Cuối cùng, một ngôi nhà mới sẽ nằm trên mảnh đất của cháu."


Xe buýt dừng lại.


"Chà, đây là trạm dừng của ông." Ông ấy đứng dậy, vỗ vai tôi, và tôi lùi lại. Ông ấy bước xuống xe buýt.


Cái duy nhất chạy qua đầu lúc đó tôi là một kỷ niệm. Tôi còn là một đứa trẻ, không quá sáu tuổi. Tôi và bạn bè đang chơi trò trốn tìm. Tôi đã trốn trong không gian chật hẹp dưới hiên nhà, và khi tôi đang trốn, tôi tìm thấy một đôi giày boots như đang bị chôn nửa chừng trong đất.


Cùng loại giày boots mà tôi đang mang lúc này, trên xe buýt. Cùng loại boots mà chúng tôi đã tìm thấy trong những không gian chật chội của mọi nhà trong khu phố của chúng tôi.


--



 

Tôi làm phục vụ tại một quán ăn, và tôi nghĩ một trong những khách quen của chúng tôi có thể là quỷ dữ. 


Tôi làm việc tại một quán ăn bên đường, ở một thị trấn mà mọi người thường đi qua một cách nhanh nhất có thể, trên đường đến nơi nào đó, hoặc gặp một ai đó, chắc vậy. Nó có tên là Lucky’s, điều này hơi mỉa mai vì nếu bạn đã đến đây, bạn chẳng có gì gọi là may mắn cả. Nếu bạn ở lại quá lâu, bụi sẽ bám lại vào quần áo. Làm việc ở Lucky’s, bạn không bao giờ thấy cùng một biển số xe hai lần, khuôn mặt cũng vậy. Đã không biết bao nhiêu lần rằng câu hỏi “Bạn đi đâu đấy?” của tôi, nhận được câu trả lời “Đâu cũng được, miễn là không trở về nơi này.” Đèn hiệu thì thường nhấp nháy, còn hơn là không có gì, và máy hát đĩa đôi khi phát những bài hát không có trong danh sách, nhưng cà phê ở đây thì luôn ấm nóng, và hầu hết mọi người đã thử đều nói rằng, bánh pancake ở đây là món ngon nhất mà họ từng thử, và tôi cũng có xu hướng đồng ý với điều này.


Tên thêu trên đồng phục của tôi ghi là Isabella, nhưng đó không phải là tên thật của tôi. Đó là tên của mẹ tôi. Cửa hàng Lucky’s đã ở đây từ rất lâu rồi. Tôi mặc nó vì tôi thích nghe người khác gọi tên của mẹ tôi. Nó giống như bà vẫn ở đây, vẫn được nhắc đến trong cuộc trò chuyện. Như thể bà có thể sẽ bước vào cánh cửa này bất cứ lúc nào, mà không bị chôn cất trong nghĩa trang, chỉ cách câu lạc bộ thoát y một đoạn.


Lucky’s cũng luôn luôn mở cửa. Luôn luôn. Làm việc ca dài phục vụ những người lang thang, tài xế xe tải và những kẻ bỏ trốn, những người đã trở nên tạm thời “ vô gia cư “ trên những con đường cao tốc, bạn sẽ hiểu được cách đọc vị người khác khá nhanh. Khi bạn di chuyển nhiều như vậy, luôn có mặt trên đường, đôi khi bạn sẽ để lại những phần của chính mình phía sau, bị lạc giữa những dặm đường. Đôi khi, mọi người chỉ lái xe vì không còn gì khác để làm. Làm việc ở Lucky’s, tôi đã thấy đủ loại các thứ bị lạc lõng rồi.


Tôi từng thấy một người đàn ông đâm vào một con nai bằng xe tải của mình, và dừng lại để chôn nó trong lòng đất đỏ, đào bới khi mặt trời lặn, nước mắt chảy đều trên mặt anh ta khi anh ta vật lộn với mặt đất để che đậy những gì anh đã làm. Tôi từng có lần được một người đàn ông, mà tôi nhận ra anh ta từ bảng tin thời sự, để lại cho tôi một tờ $20 dính máu làm tiền boa, với đôi mắt buồn trong chiếc áo khoác denim mà cẩn thận che giấu khẩu súng dán vào sườn anh ta. Tôi từng thấy một cô gái mất một tay, không quá mười sáu tuổi đứng trên nóc xe của cô ấy và hát, cho đến khi một con sói đến ngồi trước nắp ca-pô, hú theo. Tôi từng thấy hai người phụ nữ đánh nhau trong bãi đậu xe vào ban đêm bên ngoài, cho đến khi một người nhổ ra cả máu và răng của họ, rồi họ hôn nhau dưới ánh đèn xanh, của xe cảnh sát tình cờ đi ngang qua, khuôn mặt sáng lên đỏ rực.


Tôi đã thấy đường cao tốc bốc cháy, những dòng lửa giữa các bánh xe khi mặt đường tự bốc cháy trong cái nóng. Tôi đã thấy những buổi rửa tội bên đường, mục sư đến bằng một chiếc xe van và một bể bơi cho trẻ em. Tôi đã thấy những thứ đi lại trong sa mạc, ngay ngoài tầm với của biển hiệu neon, cho nhà trọ mà trông không giống như con người, đang chuyển động trong đêm xanh. Tôi đã gặp một người phụ nữ đã cho tôi xem một bức ảnh về nơi bà được chôn cất. Tôi thường gặp những người mà bạn sẽ trò chuyện một lúc, cho đến khi thấy khuôn mặt của họ bắt đầu nhấp nháy, không thể giữ vững vẻ bề ngoài lâu như vậy. Tôi đã gặp những người mà lẽ ra phải được mời vào trong, trước khi họ có thể vượt qua ngưỡng cửa. Tôi đã gặp một số thành viên dễ thương của một giáo phái hiến tế, họ cho tiền boa rất tốt và rất lịch sự, ngay cả khi họ hỏi tôi liệu tôi có xem xét việc để họ thu hoạch cái mạng của tôi hay không.


Nhưng bài viết này lại là một câu chuyện về - à, bạn đã đọc tiêu đề rồi nhỉ.


Đó là vào một ngày thứ Sáu và tôi đang làm ca đêm. Tôi thích làm ca đêm, vì khi tôi lái xe về nhà, tôi có thể giả vờ một lúc rằng, tôi sẽ theo đuôi đèn hậu của chiếc xe phía trước cho đến khi tôi để lại mọi thứ phía sau lại trong gương chiếu hậu, cho đến khi trời sáng hẳn và sa mạc biến thành đại dương, như thể nếu tôi hạ hết cửa sổ xuống, tôi sẽ cảm nhận được vị muối trong không khí. Nó đó, và tôi là một trong số ít phục vụ, có thể nói, đủ trình độ để phục vụ khách hàng vào ban đêm. Hơn nữa, tiền boa thường tốt hơn khi mặt trăng xuất hiện. Chúng tôi chỉ có ba khách quen thực sự tại Lucky’s, và chỉ có hai người đã xuất hiện cho đến giờ.


Rose-Marie, khách hàng đầu tiên và thường xuyên nhất của chúng tôi, ngồi bên cửa sổ trong chiếc áo khoác lông nâu, luôn quàng khăn quanh vai bất kể trời mưa hay nắng, mặc dù nơi này hầu như rất ít khi mưa. Tóc cô dài và trắng, chảy xuống lưng như ánh trăng qua một tấm kính. Cô vẫy tay về phía tôi, ban cho tôi một cái nháy mắt làm cho những nếp nhăn ở khóe mắt cô sâu hơn, càng trở nên đẹp hơn vì điều đó. Rose-Marie thích rượu whiskey pha trong trà của mình. Đôi khi, cô cho những vụn bánh vào những con búp bê voodoo mà cô mang trong túi. Cô cũng là một người mất ngủ mãn tính và thích có sự đồng hành của những người nào đó may mắn, trong khi giấc ngủ luôn trốn tránh cô.


Cô tiếp tục lật qua bộ bài mà cô đã đặt sẵn trên bàn. Tôi nhìn thấy những ngón tay cô lật hai quân joker. Rose-Marie thích tiên đoán tương lai khi cô có thời gian. Cô sử dụng một bộ bài chơi của khách sạn đã sờn, và nếu cô đang trong tâm trạng tốt, cô sẽ đọc tuột hết mọi quá khứ của bạn. Tôi không dám hỏi cô ấy quá nhiều, vì những lời nó đó thật đáng kinh ngạc rằng, lại là sự thật.


Bàn số 6 trống rỗng và sạch sẽ như thường lệ. Đây là bàn duy nhất không có lọ muối, và cũng là bàn duy nhất tôi không bao giờ đặt dao nĩa lên. Chỉ có một người từng ngồi ở đó.


Khách hàng thứ hai của chúng tôi, Jones, ngồi trong gian hàng quen thuộc, những giọt cà phê đen còn lại được giữ chặt giữa tay, huy hiệu đặt trên bàn. Anh nhắm mắt, cúi đầu như đang ăn năn, hơi nước cuộn lên từ miệng cốc và quấn quanh các ngón tay. Jones là người tôi thích nhất trong số khách hàng, nếu không là tôi sẽ bao giờ nói chuyện với anh ta. Tôi đi qua gian hàng và trượt một bát gói đường trên mặt bàn cho đến khi nó chạm vào cốc với một tiếng kêu nhẹ. Anh giật mình, với tay vào bao súng theo thói quen, cho đến khi mắt anh tập trung và nhìn thấy tôi.


Anh mỉm cười, ngượng ngùng, và điều đó làm thay đổi khuôn mặt anh, kéo anh trở lại cuộc sống. Khi anh cười, giống như một cơn bão trong mùa hạn hán, khiến bạn muốn đứng lại và xem, và có thể ở lại đó một chút lâu hơn. Tôi muốn đặt tay lên tay anh, nơi chúng đã trở lại vị trí trên cốc, để cảm nhận hơi ấm từ bàn tay anh.


Đôi khi tôi có thể cảm nhận nỗi buồn trong người khác chỉ bằng cách chạm vào da họ. Họ mang nó theo bên mình, sâu trong xương cốt, cố gắng giấu nó khỏi thế giới. Nhưng đôi khi bạn có thể gỡ bỏ nó khỏi họ trong một hoặc hai phút, nếu bạn có đủ lòng tốt. Thường thì không tốn nhiều thời gian và nước bọt đâu. Jones còn quá trẻ để buồn như vậy ,thế nhưng.


“Hôm nay có mệt lắm không?” Tôi ra hiệu bằng bình cà phê, về chiếc cốc còn một nửa của anh. Mọi người đều biết về cô bé mà anh đã kéo ra từ thùng rác bên ngoài hồ bơi tuần trước. Cô bé là người thứ năm mất tích trong ba tháng. Tôi có thể thấy từ những cái bóng như dấu vân tay tím ngắt dưới mắt anh rằng, anh đã mơ về cô. Cô bé được tìm thấy mà không có đeo giày. Anh đã bế cô đến xe cứu thương trong khi vẫn đeo một đôi tất, màu hồng với những bông hoa cúc nhỏ trên đó, nhỏ bé trong vòng tay anh như cô đang ngủ.


Lou, người đầu bếp phụ trách chiên xào, đã khóc khi tôi nói với anh ta về điều đó hôm trước. Tôi thực sự thích Lou. Anh gần như quá to con để lọt qua được cửa phục vụ, và có một hình xăm của con chó của mình ngay dưới hình xăm của thiên thần tử thần trên vai. Lou thường rơi nước mắt vì hầu hết mọi thứ. Những con gấu trúc chết nè, mà chúng tôi luôn tìm thấy bên cửa sau, với đôi tay bị mất. Mỗi khi có một tờ rơi mất tích mới dán lên kính vỡ của buồng điện thoại trong bãi đậu xe. Mỗi lần anh nghe I Will Forever Hate Roses khi nó xuất hiện trên máy hát. Người đàn ông to lớn, nhưng trái tim anh ta còn lớn hơn.


“Lúc nào cũng mệt,” Jones nói khi tôi rót cà phê. Một cô gái khác đã mất tích hôm qua. Khi tôi rót, tôi chắc chắn đã chạm vào ngón cái của anh, nơi nó đặt trên tay cầm cốc bằng mặt trong của cổ tay mình, nâng nỗi buồn đó ra xa nhất có thể. Anh mỉm cười nhìn tôi, ngại ngùng, và tôi mỉm cười lại trước khi có thể ngăn bản thân mình lại.


Tôi đi đến gian hàng tiếp theo, hai tài xế xe tải với những gương mặt đã thấy quá nhiều ánh nắng. Một người đang cho người kia xem ảnh đứa con mới sinh trong ví của mình. Anh ta có hàm răng nhuốm thuốc lá, một vết thương trên má và đôi môi nứt nẻ vì gió - và nụ cười của anh ta là điều đẹp đẽ nhất, khi anh nói về đứa trẻ của mình, rạng rỡ như một buổi sáng Giáng sinh. Anh ta cũng cho tôi xem ảnh con bé nữa, khi tôi rót thêm cà phê cho anh, và tôi ở lại nói chuyện với họ một lúc.


Tài xế xe tải còn lại, với những chiếc răng vàng, kể cho tôi nghe về việc anh từng lái xe chở heo, nhưng không thể chịu đựng được cảm giác tội lỗi khi giao chúng cho lò mổ. Anh nói anh đã nhìn thẳng vào những gương mặt hồng hào của chúng qua các thanh gỗ, và đôi mắt của chúng nhìn lại, sáng và cầu khẩn như thể chúng biết những gì anh đã làm. Anh nói anh vẫn mơ về chúng. Giờ anh lái xe chở hải sản đông lạnh, giao hàng đặc biệt cho những khách sạn sang trọng, tuy anh chưa ra biển cả bao giờ.


Lou đã gõ chuông từ sâu trong bếp và tôi quay lại làm việc, nhận đơn từ một người phụ nữ có một chú chó Labrador, người đã gọi món hot dog cho cả hai, và ba cậu bé tuổi teen trong những chiếc áo khoác trường đầy vết máu ở góc, mấy đứa trẻ có mười đô la và yêu cầu nhiều bánh quế nhất có thể.


Chúng thường đến đây vào những đêm trăng tròn, để xe đạp của mình bị xích lại trong bãi đậu xe. Mấy đứa trẻ này luôn săn lùng một cái gì đó, với những cây gậy bóng chày, ba lô đầy đạn và súng của bố chúng, nhưng kỳ diệu là chúng lại là những đứa trẻ tốt, vì vậy tôi luôn cho họ thêm kem. Hơn nữa, tôi biết mấy đứa này cần năng lượng, vì khi họ săn lùng, họ phải chạy nhanh. Rất nhanh. Trước đây có tới tận bốn đứa.


Tôi dọn dẹp bàn của hai người phụ nữ ở gian hàng tiếp theo trên đường quay lại. Họ trông như là sinh đôi, cả hai đều mặc váy lụa dài và giày đi bộ, tóc đỏ xếp chồng lộn xộn trên đầu.


Không ai trong số họ để ý tới tôi, không phải vì thô lỗ mà vì do họ quá bận rộn, đang xếp đồ vào túi, tràn ngập bản đồ và sổ tay. Tôi nhìn thấy một cuộn băng dính và một chai vodka ở đó, cùng với một vài cọc thánh giá. Họ đang nói chuyện say sưa, vẫy tay và tôi nghe lỏm được một chút, khi tôi xếp những chiếc ly trống của họ, có son môi quanh vành.


“Tôi biết tôi đã chôn anh ấy ở đâu, Sylvia-,” “Cô chả biết gì cả! Chúng ta đã đào hàng giờ, và-”


Mẹ tôi luôn dạy rằng nghe lén là thô lỗ, vì vậy tôi để họ yên và đi vào bếp. Nhưng tôi có cảm giác rằng bất cứ nơi nào mà họ đã rời đi, bất kể anh ta là ai, chắc chắn anh ta không còn ở trên đời này nữa. Tôi cảm thấy muốn nói với họ, nhưng như mẹ tôi đã nói, nghe cuộc trò chuyện của người khác không phải là phép lịch sự, bạn không bao giờ biết rằng, việc không nghe, không biết, không để ý, lại tốt như thế nào đâu.


Lou đang nhảy múa theo nhạc phát trên radio, lắc hông theo điệu Sugar Hill khi Dolly hát qua dây. Anh vẫy tay với tôi bằng cái xẻng mà anh đang sử dụng như một chiếc micro.


Carlos đưa cho tôi một đĩa bánh kếp.


Carlos đã làm việc ở đây lâu đến nỗi anh biết mẹ tôi, và là người duy nhất biết tên thật của tôi. Anh đôi khi đi cùng tôi vào cuối tuần để thay hoa trên mộ của mẹ. Anh luôn mang hoa sa mạc cho bà, mọc từ cùng một mảnh đất mà bà đã nằm. Carlos cũng là người duy nhất biết công thức làm bánh kếp của Lucky, và là người duy nhất có thể nấu chúng đúng cách. Vào những ngày anh không làm việc, chúng tôi không có bánh kếp. Đơn giản vậy thôi. Đó là cách mà mọi thứ diễn ra. Tôi đã học được điều đó theo cách khó khăn, nhưng đó là một câu chuyện khác.


Cùng với bánh kếp, anh ấy nói một lời cảnh báo.


“Anh ta đã trở lại.” Anh ra hiệu qua cửa. “Bàn số 6.”


Khách hàng cuối cùng của chúng tôi đã xuất hiện. Đã một thời gian kể từ khi anh ấy ghé qua. Tôi thậm chí còn không thấy anh ấy vào, nhưng điều đó không phải là điều bất thường. Anh ấy di chuyển theo những cách bí ẩn. Tôi nhướn mày. Chết tiệt. Carlos cũng nhướn một bên. Ôi chết tiệt. Anh ấy ném cho tôi hũ muối với vẻ mặt khó chịu, và tôi nhét nó vào túi tạp dề của mình. Lou lục lọi trong một trong những tủ đồ của nhân viên trong một lúc, cho đến khi anh ấy xuất hiện với vẻ chiến thắng, vẫy vẫy một cuốn kinh thánh. Anh đặt nó lên quầy bên cạnh các bình siro và lật đến một trang ngẫu nhiên.


Chúng tôi cúi người qua vai rộng lớn của anh ấy để đọc những gì ghi trên đó. “Hãy tránh xa những lời buộc tội sai trái, và đừng giết những người vô tội và chính trực, vì ta sẽ không tha thứ cho kẻ ác.” Lou nhún vai và vỗ vai tôi.


Tôi không được trả đủ tiền cho những điều này.


Tôi mang bánh kếp đến bàn số 6, bàn đã trống rỗng với lần cuối tôi nhìn. Bây giờ nó đã rất đông đúc. Người đàn ông ngồi ở bàn số 6 đang cười khi tôi tiến lại gần. Nếu bạn có thể gọi đó là một nụ cười. Nó giống như một cái nhếch mép, môi căng đỏ ở các góc mặt. Đôi mắt của anh ta liên tục đảo qua lại, quá nhanh để đếm, như thể đồng tử của anh ta không thể quyết định nơi nào nên nhìn. Bàn tay của anh ta run rẩy khi tôi lại gần, lơ lửng như ruồi trên một xác thịt.


Tôi cố gắng nghiêng người càng xa anh ta càng tốt khi tôi đặt đĩa lên bàn, nhưng khi tôi rút tay lại, anh ta nhanh chóng thò cổ ra, ngẩng đầu lên và nghiêng mặt về phía tôi. Anh ta hít vào, mạnh mẽ, mí mắt rung rinh. Anh ta cười khúc khích, âm thanh chói tai như thể bị mắc kẹt trên nóc miệng. Tôi lùi lại, cố gắng giấu đi sự thôi thúc muốn chạy về bếp. Có điều gì đó về việc nghe một người đàn ông trưởng thành cười khúc khích, khiến da tôi nổi da gà.


“Tôi có thể mang cho anh thứ gì không?” Tôi hỏi, giả vờ cười vui vẻ.


“Tôi muốn biết tên của cô.” Anh ta nắm một chiếc bánh kếp trong nắm tay, vò nát, làm nó biến thành một đống bột nhão.


Tôi gõ nhẹ vào bảng tên trên đồng phục của mình. Anh ta lắc đầu, cười toe toét, vai gần như rung lên với những chuyển động lạ lùng khi nụ cười của anh ta thoáng chút biến mất, răng cửa đột ngột nhô ra, lưỡi thò ra sắc lẹm. Bẩn thỉu bám đầy dưới móng tay của anh ta, đỏ như đất bên lề đường. Rồi anh ta lại cười, lắc lư chậm rãi từ bên này sang bên kia, hoang dã, trong chiếc áo khoác săn bắn của mình. Tóc của anh ta rũ xuống như những sợi dây nhờn quanh tai, như những đuôi chuột vàng, và chúng đung đưa theo anh, qua lại.


“Isabella, Isabella, Isabellam, không phải.” Đột nhiên anh ta đập tay lên mặt, đổ bánh kếp bị nghiền nát vào cái miệng rộng mở của mình. Tôi giật lùi lại, động tác quá đột ngột. Tôi nhét tay vào tạp dề, tìm hũ muối, và đôi mắt của anh ta hẹp lại.


“Không cần phải như vậy,” một giọng nói từ phía sau tôi vang lên. Nó lăn qua vai tôi, sâu thẳm, đến tận xương, đó là Ông Prince.


Tôi quay lại đối diện với khách hàng thứ ba của chúng tôi, sự nhẹ nhõm hòa lẫn với nỗi sợ hãi trong một cái hố xoáy trong ngực tôi. Giống như cảm giác bạn được ở một hội chợ giữa mùa hè, khi bạn đã ở trên vòng đu quay quá lâu, và một phần trong bạn biết rằng bạn cần phải xuống, nhưng phần còn lại không muốn rời đi vì bạn biết ngay khi bạn đứng yên, bạn sẽ cảm thấy buồn nôn. Ông Prince có ảnh hưởng đó đến mọi người.

 

Cách mà Ông Prince mặc, như mọi khi, bộ đồ sọc đen. Chiếc mũ stetson của ông tối hơn cả màn đêm bên ngoài, và đôi giày của ông sáng bóng như thể luôn bị ướt đẫm. Nếu bạn không để ý đến những thánh giá lộn ngược được thêu tinh tế trên ve áo của ông, bạn có thể nghĩ ông chỉ là một người đàn ông có tiền, có thể liên quan đến một cái gì đó hơi mờ ám, như dầu mỏ hay dược phẩm. Ông đẹp trai với hàm răng trắng, nụ cười trắng như xương người, nhưng kính râm đen của ông được đặt trên sống mũi, viền bạc và lấp lánh, che giấu đôi mắt của ông như thường lệ. Khi ông nói, giọng ông trầm, kéo dài từ sâu thẳm.


“Tôi xin lỗi vì… về người quen của tôi. Anh ấy hơi…” Ông Prince liếc nhìn người đàn ông ngồi ở bàn số 6, khi anh ta thở hổn hển với lưỡi thè ra, như một con chó. “…hơi quá phấn khích.” Ông Prince ngồi xuống và đèn trên quầy sáng tối liên tục. Ông nghiêng mũ về phía sau đầu và máy hát jukebox kẹt sặc sụa rồi đột nhiên Robert Johnson lại vang lên, hát về cái giao lộ chết tiệt đó lần nữa. Ông Prince nhét một điếu Marlboro Red vào giữa hai hàm răng, và mở cửa sổ một chút bằng khớp tay trái. Chiếc nhẫn hình ngôi sao bạc trên ngón tay đeo nhẫn của ông va vào kính.


Ông Prince cười, giống như những con rắn khi chúng quan sát bạn từ cỏ trên bụng. Điếu thuốc giờ đã cháy giữa hai hàm răng của ông, mặc dù ông không hề cử động.


“Chưa kể la, Leroy không phải là kiểu người cần ăn muối đâu. Anh ấy chỉ là một người đàn ông thôi.” Ông nhìn Leroy từ trên xuống dưới và môi trên của ông khẽ nhếch lên. “Hầu như không.” Ông quay sang Leroy. “Tôi thấy anh đã bắt đầu ăn bánh kếp của tôi rồi đấy. Nhưng ăn ngon mà không chia sẻ, thì còn ý nghĩa gì.” Leroy cười khúc khích âm thanh cao kỳ lạ khiến tôi muốn chạy, và hơi rùng mình. Mọi thứ về Leroy khiến tôi lo lắng, cảm giác chiến đấu hoặc chạy trốn sẵn sàng tràn ngập trong cơ thể tôi.


Ông Prince đưa cho Leroy một thực đơn. “Gọi bất cứ thứ gì anh muốn đi.” Ông cúi người về phía trước và đèn lại nhấp nháy.


Leroy gọi bốn chiếc bánh burger phô mai và một ly sữa. “À, nếu chỉ có vậy thôi thì được!” Tôi nói. Tôi cảm thấy ánh mắt của Leroy bám chặt vào lưng tôi khi tôi rời đi. Rose-Marie vẫy tay gọi tôi, trước khi tôi có thể trở lại an toàn trong bếp.


“Nếu tôi là cô, thì tôi sẽ không lo lắng về anh ta đâu, cục cưng.” Cô ấy làm dấu thánh, và gõ nhẹ vào lá bài trên đỉnh chồng bài. Lá bài Bích. Nó đã bị cào xóa mắt. Nhưng không phải do Rose-Marie làm. Nó trông như đã được in như vậy nhiều năm rồi. “Chúng ta sẽ không gặp lại anh ta nữa.” Cô ấy không nói về ông Prince. Cô ấy nâng cằm tôi lên và tôi tựa vào đó, bàn tay cô thô ráp vì tuổi tác, nhưng ấm áp. Tôi có thể thấy rằng có lẽ, cô ấy nghĩ tôi trông mệt mỏi. Cô ấy thanh toán cho trà và bánh nướng của mình, rồi bước ra ngoài, đi vào đêm ấm áp đang chờ bên ngoài cửa.


Cuối cùng tôi cũng trở lại bếp và ngay lập tức bị tấn công. Nước lạnh dội vào mặt tôi và tôi theo phản xạ giơ tay lên, cố gắng bảo vệ tóc. Lou xịt nước vào mặt tôi một cách mạnh mẽ, bằng bình xịt mà chúng tôi cũng để trong tủ đồ của nhân viên, loại dùng để chăm sóc cây trong nhà, cái bình đó đã được đổ đầy nước thánh từ trước.


“Lou! Chúa ơi, cút ra, tôi đang-” Tôi lắp bắp, và anh ấy lại xịt vào tôi. Tôi phun nước thánh ra, nhỏ giọt xuống trước váy và lau nó khỏi mắt, lớp trang điểm của tôi hơi bị phai đi rồi. Tôi giật lấy bình từ tay anh ấy. “Tôi nghĩ tôi ổn.” Nhưng thực ra tôi không thực sự tức giận, thà an toàn còn hơn tiếc nuối, đặc biệt khi nói đến mấy vụ nhập hồn.


“Xin lỗi! Chỉ kiểm tra thôi.” Lou đưa cho tôi một chiếc khăn lau bát một cách ngại ngùng. “Tôi đã làm như vậy với tôi và Carlos rồi.” Anh ấy nhìn xuống đôi giày của mình, có chút lúng túng. Anh cao hơn tôi một cái đầu và lớn hơn tôi như một thập kỷ vậy, tôi giấu nụ cười vì anh đang xoay xoay ngón chân của ủng qua lại như một đứa trẻ bị giữ lại sau giờ học.


Carlos giữ ánh mắt của mình một cách chắc chắn, nhìn vào tay khi anh bắt đầu lật bánh, nhưng tôi có thể cảm nhận được anh đang cố gắng kìm nén một tiếng cười, cắn chặt răng. Tôi nheo mắt và nhắm bình xịt vào anh. “Có lẽ anh bạn đây cần thêm một chút nữa,” tôi đe dọa. Lou khịt mũi và sau đó Carlos cười và tôi cũng cười, và cảm giác nặng nề đã đè nén chúng tôi kể từ khi ông Prince bước vào đã tan biến.


Đôi khi, khi mọi thứ trở nên quá tối tăm, tất cả những gì bạn có thể làm là cười. Mẹ tôi luôn nói rằng khi mọi việc trở nên khó khăn, bạn có thể chọn cười hoặc khóc. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ tôi khóc.


Đã gần 3 giờ sáng, khi tôi mang bánh burger trở lại bàn số 6. Leroy rõ ràng là đang chảy nước dãi và vỗ tay khi tôi đi lại. Tôi đặt đĩa trước mặt anh ta nhanh nhất có thể, nhưng khi tôi rút tay lại, đầu anh ta thò ra phía trước và anh ta liếm vào bên trong cổ tay tôi. Lưỡi của anh ta dài và ướt trên mạch đập của tôi. Tôi giật lùi lại như thể bị cắn và anh ta cười, âm thanh chói tai và điên cuồng.


“Cô ăn ngon hơn mấy thứ này nhiều,” anh ta nói, mỉm cười và chỉ vào những chiếc bánh burger. Ông Prince quan sát mọi việc diễn ra, bình tĩnh và không thể đọc vị được như bầu trời, trước khi sấm sét của mùa hè thiêu đốt một cái cây. Tôi hoảng hốt lau tay lên tạp dề, nhưng tôi vẫn cảm thấy cái lưỡi đó trên da mình, như thể, tôi đã để tay trong miệng của anh ta. Tôi chống lại những giọt nước mắt đột ngột rơi ở khóe mắt, vì có điều gì đó mách bảo tôi rằng Leroy sẽ thích chúng một chút quá mức. Tôi rùng mình và dọn dẹp đĩa của ông Prince.


“Bảo Carlos rằng bánh kếp… ngon như mùi vị của địa ngục ấy,” ông ta nói, từ sau cặp kính râm. Sau đó, ông ta cười khúc khích, âm thanh thấp và khàn khàn, như thể có điều gì đó ông ta nói là rất buồn cười. Ông ta nhét một điếu Marlboro khác vào giữa hai hàm răng và nó bắt đầu phát sáng, khi Leroy nhồi thịt burger vào miệng. Tôi cố gắng không nôn khi nhìn thấy mấy miếng thịt vụn bị kẹt, dưới những móng tay dài của anh ta.


Tôi đi ngang qua Jones trên đường trở về nhà bếp. Anh ấy vẫy tay gọi tôi, đôi mắt nhăn lại vì lo lắng. Anh ấy chà tay qua mặt, như thể đang cố gắng lau sạch mọi điều xấu xa.


“Anh ta có làm phiền cô không?” Anh ấy chỉ về phía Leroy, người đang lắc lư qua lại uống sữa. Jones đột nhiên trông rất mệt mỏi, đồng phục nhăn nhúm như gương mặt anh vậy, trông như anh đã năm mươi tuổi, thay vì hai mươi hai. “Không có gì tôi không thể xử lý được cả,” tôi lắc đầu và nghĩ về Rose-Marie. “Chúng ta sẽ không gặp lại anh ta nữa.”


Cảm giác như hàng giờ chờ đợi Leroy ăn xong. Tôi nhận đơn của một người đàn ông có hình xăm bướm trên cổ và một số tài xế xe tải đang đổ Jim Beam vào cà phê của họ. Họ yêu cầu tôi một cốc thêm mà họ đặt ở ghế trống trên bàn, cho những người bạn vắng mặt, họ nói vậy. Tôi lau sạch mặt quầy, bổ sung các gói đường, và lấy rác ra, phớt lờ người đàn ông trong mặt nạ thỏ thường chờ bên ngoài thùng rác. Miễn là bạn không nhìn vào anh ta, anh ta sẽ không làm phiền bạn. Tôi tiếp tục rót cà phê, và nhận đơn của nhóm lớn các cô gái đi xe máy vào, mặc đồ da và có vẻ mệt mỏi.


Lúc 3:03 sáng, ông Prince đứng dậy. Leroy đã liếm sạch đĩa của mình và đang ngồi yên, nhìn lên ông với nụ cười lộ răng, tay nắm chặt mặt bàn đến mức khớp ngón tay trở nên trắng bệch như sữa. Ông Prince đưa cho tôi một cuộn tiền được bọc trong nhựa đen, mà tôi biết tốt hơn là không nên đếm. Ông nghiêng mũ.


“Gặp lại sau nhé Leroy. Tất cả chúng ta đều phải trả tiền vào một lúc nào đó,” ông nói. Ông nghiêng người và nói nhẹ nhàng. “Bởi vì tôi sẽ không tha thứ cho những kẻ ác,” ông cười. Ông đưa tay ra cho Leroy, lòng bàn tay phẳng, chờ đợi. Tay Leroy run rẩy khi anh ta với vào áo khoác săn bắn của mình và rút ra một đôi giày. Đôi giày của một đứa trẻ, nhỏ đến mức cả hai có thể vừa trong một bàn tay. Đôi giày thể thao màu hồng nhỏ, bẩn thỉu, với những vết nâu trên đầu ngón chân mà tôi biết chỉ có thể là một điều. Ông Prince xem xét chúng một lúc, dưới ánh đèn, và lắc đầu.


Ông có vẻ như rất tiếc, trước khi đưa chúng cho tôi. “Dành cho người đàn ông của bạn ở đó. Bảo anh ta tìm sâu hơn nơi họ đã nhìn lần cuối.” Ông gật đầu về phía Jones, người đang quan sát chúng tôi, huy hiệu nắm chặt trong tay. Nhưng Jones biết tốt hơn là không lại gần.


Ông Prince quay sang Leroy và cười quanh điếu thuốc trên môi. “Chúng ta còn một chặng đường dài, con đường mà chúng ta đang đi. Họ nói nó được trải bằng những ý định tốt đẹp.” Ông cười khúc khích, và tôi cảm thấy buồn nôn. Ông nắm tay Leroy, như một đứa trẻ, và họ bước ra ngoài vào đêm tối, ấm áp và hồi hộp. Cửa tự động đóng lại phía sau họ, mặc dù không ai chạm vào chúng. Máy hát jukebox khụt khịt, và Chris Rea vang lên, hát về con đường đó một lần nữa.


Tôi đặt đôi giày lên bàn bên cạnh cốc cà phê trống của Jones, và truyền đạt thông điệp. Anh ấy ngồi yên trong một thời gian dài sau đó, chỉ nhìn chúng trên mặt bàn, cố gắng không khóc hay la hét hay đấm một lỗ vào tường. Tất cả những gì tôi có thể làm là rót thêm cà phê cho anh ấy, vì khi ai đó đang cố gắng giữ cho bản thân bình tĩnh như vậy, không còn gì để nói nữa.


Ca làm việc của tôi kết thúc, và tôi lái xe về nhà, theo sau những ánh đèn hậu phía trước. Tôi biết khi tôi tỉnh dậy, trời sẽ tối, và sẽ đến lúc cho ca làm việc tiếp theo của tôi, nhưng bây giờ, tôi chỉ lái xe, mơ về đại dương và nhìn ngắm mặt trời mọc, như nó vẫn thường vậy, bất chấp mọi thứ.

Đăng nhận xét

Post a Comment (0)

Mới hơn Cũ hơn